SKKN Một số giải pháp góp phần khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học sinh Trung học Phổ thông hiện nay
Những thuận lợi và khó khăn
2.1.1. Những thuận lợi
Trong quá trình giảng dạy tại đơn vị cũng như thực hiện đề tài nghiên cứu,
bản thân tôi luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo nhà trường, các
thành viên trong tổ Văn - Ngoại ngữ, các đồng nghiệp trong trường và sự phối hợp
của các bậc phụ huynh. Đặc biệt là trong quá trình thu thập và xử lý thông tin, tôi
luôn nhận được sự hỗ trợ tận tình ngay từ khâu chuẩn bị cho đến khi hoàn thành đề
tài. Điều này tạo nên những thuận lợi và là niềm động viên, khích lệ tôi hứng thú
hơn trong quá trình thực hiện đề tài.
Về phía học sinh, đa số các em có sự đồng đều về năng lực học tập và ý thức
trong giao tiếp, các em sẵn sàng và tình nguyện hỗ trợ tôi trong rất nhiều công việc
như phát phiếu điểu tra, thực hiện bài kiểm tra, hay là quá trình thực giảng trên
lớp
2.1.2. Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì tôi cũng gặp không ít những khó khăn nhất
định như:7
+ Thực tế xã hội ta hiện nay vẫn chưa làm tốt chức năng giáo dục trongviệc
này, nhất là ở trách nhiệm gia đình, nhà trường và đoàn thể.
+ Bản thân chưa có điều kiện đểtiếp cận nhiều với những chuyên đề, giải
pháp hiệu quả một cách trực tiếp trong việc giáo dục học sinh trung học phổ thông
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
+ Do cách dạy học hiện nay nặng về tính truyền thụ, thực dụng về kiến thức
thi cử nên khả năng diễn đạt hạn chế rất nhiều.
+ Một số phụ huynh còn xem nhẹ cách giao tiếp lời ăn tiếng nói hàng
ngày của con em mình, điều này dẫn tới lối nói tùy tiện mất đi vẻ đẹp vốn có
của tiếng Việt.
+ Về phía học sinh, một bộ phận không nhỏ thiếu ý thức trong giao tiếp
và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, điều này ảnh hưởng xấu đến văn hóa
học đường.
+ Yếu tố thời đại, xã hội cũng là một trong những khó khăn tác động rất lớn
đến ý thức, trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của học sinh nói riêng,
xã hội nói chung.
uyền trầm, dấu ngã chênh vênh (Tiếng Việt, Lưu Quang Vũ) Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản? Câu 2. Văn bản trên thuộc thể thơ nào? Câu 3. Chỉ ra và phân tích tác dụng của những biện pháp tu từ được sử dụng chủ yếu trong văn bản. Câu 4. Văn bản thể hiện thái độ, tình cảm gì của tác giả đối với tiếng Việt. Phần 2: Làm văn Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đối với giới trẻ ngày nay. ĐỀ 2: Phần 1: Đọc - hiểu Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu sau: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”. (trích Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh) Câu 1. Đoạn trích được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng. 45 Câu 2. Khi nói đến tình yêu tiếng Việt của các nhà thơ mới, tác giả đã dùng những từ, những hình ảnh thấm đượm tình cảm nào? Câu 3. Cách diễn đạt “là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua” có nghĩa là gì? Câu 4. Viết lại một câu thơ ở một trong các bài thơ “Vội vàng” (Xuân Diệu), “Tràng giang” (Huy Cận), “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử), “Tương tư” (Nguyễn Bính) đã học, đọc để minh chứng cho tình yêu quê hương đất nước qua tình yêu tiếng Việt của các nhà thơ mới. + Ngay khi dạy các tác phẩm văn chương, giáo viên có thể lồng ghép giáo dục tình yêu tiếng Việt cho học sinh qua việc khai thác cách sử dụng những từ ngữ đặc sắc của tác giả. Điều này sẽ hướng các em cảm nhận sâu sắc hơn khía cạnh khác của việc sử dụng tiếng Việt là không chỉ đúng mà còn cần dùng hay, đạt hiệu quả giao tiếp cao. Ví dụ: Khi dạy đoạn trích “Trao duyên” (Truyện Kiều) của Nguyễn Du, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cảm nhận cách sử dụng từ ngữ tài tình của Thúy Kiều qua các từ “cậy”, “nhờ”. + Phát hiện lỗi sử dụng trong giao tiếp, trong bài kiểm tra của học sinh, khoanh tròn sửa lỗi đặc biệt những lỗi sai do cố tình sử dụng sai cách dùng từ như hiện nay. Trừ điểm thành phần bài kiểm tra đối với trường hợp sai nhiều lần. Giáo viên giảng dạy nên có bảng thống kê bài kiểm tra các lỗi sai kể cả lỗi sai chính tả nhằm kiểm tra mức độ thay đổi qua từng bài viết, ví dụ: Họ và tên Số lỗi chính tả, cách dùng từ (các lỗi khác) Bài kiểm tra lần 1 Bài kiểm tra lần 2 Bài kiểm tra lần 3 Bài kiểm tra lần 4 Nguyễn Văn A Nguyễn Văn B + Giáo viên cũng có thể cho học sinh rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt qua một số biện pháp sau: * Giáo viên đưa ra bài tập yêu cầu học sinh phát hiện, mô tả lỗi và sửa lỗi trong một số văn bản chưa chuẩn mực. * Giáo viên có thể rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt chuẩn, hay cho học sinh ngay trong cách trả lời câu hỏi trong hoạt động tìm hiểu bài trên lớp: Xuất phát từ thực tế trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy khi trả lời câu hỏi phát vấn của giáo viên, một số học sinh còn lúng túng, diễn đạt lủng củng, hay không biết diễn đạt rõ ý của mình. Đặc biêt, ở một số học sinh còn trả lời “trống không”, câu trả lời thiếu chủ ngữ. Đây dù là điều rất nhỏ nhưng nếu giáo viên giành chút thời gian “chỉnh” cho các em phép lịch sự trong giao tiếp và kĩ năng diễn đạt ý hiểu của mình một cách ngắn gọn, rõ ràng, chính xác cũng là một yếu tố quan trọng giúp các em sử 46 dụng tiếng Việt chuẩn mực. Hoạt động giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên giữa mọi người trong xã hội. Giao tiếp có ở mọi nơi, mọi lúc, có thể ở dạng lời nói nhưng cũng có khi tồn tại ở dạng viết. Và khi chấm chữa bài thi, bài kiểm tra, đặc biệt phần nghị luận xã hội, tôi thấy nhiều học sinh diễn đạt lủng củng, tối nghĩa, không đúng phong cách ngôn ngữ. Chính vì thế, trong việc sử dụng tiếng Việt ở dạng viết, giáo viên nên thường xuyên giao bài tập để học sinh luyện viết vì chỉ khi đặt bút, các em mới thật sự diễn đạt ý tưởng của mình thành hiện thực. Bản thân tôi, mỗi tuần tôi gợi ý một chủ đề nghị luận xã hội, yêu cầu học sinh về nhà tự viết một đoạn văn. Điều này vừa rèn kĩ năng viết văn nghị luận xã hội, vừa diễn đạt tiếng Việt một cách chuẩn xác nhất. * Một biện pháp tôi nhận thấy cũng rất hiệu quả trong việc khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của một bộ phận học sinh hiện nay là hướng các em tham dự nhiều hơn những hoạt động thực tiễn như SÂN KHẤU HÓA MÔN HỌC. Khi tham gia sân khấu hóa môn học, các em sẽ tự mình thực hiện tất cả từ viết kịch bản, đạo diễn, diễn viên... Trong quá trình đó, học sinh thể hiện được sự sáng tạo của mình, hiểu tác phẩm văn chương sâu sắc hơn, tạo hứng thú trong học môn Văn. Đặc biêt, quá trình đó đòi hỏi các em tư duy trong mỗi nhân vật lời thoại sẽ như thế nào, phù hợp với nhân vật, hoàn cảnh, văn hóa vùng miền... Như thế, điều mang lại cho các em chính là ý thức sử dụng ngôn từ tiếng Việt chuẩn và hay. Một quốc gia hoàn toàn tự do độc lập, thì ngôn ngữ của quốc gia ấy cũng phải độc lập, không được pha trộn, lai tạp với những thứ ngôn ngữ khác. Vì thế, ngay từ bây giờ cần có ngay những biện pháp để giữ những phẩm chất đẹp của tiếng Việt. Các bạn trẻ cần phải tự nhận thức được niềm tự hào và ý thức dân tộc trong việc sử dụng tiếng Việt để tiếng Việt vẫn mãi đẹp, vẫn mãi phong phú, tinh tế, trong sáng như bản sắc vốn có từ lâu. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 1. Đối tượng áp dụng Tìm hiểu thực trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của một bộ phậnhọc sinh trong trường ở tất cả các khối 10, 11, 12, từ đó đề ra những giải pháp khắc phục hiện tượng sử dụng ngôn ngữ thiếu trong sáng và chuẩn mực ở học sinh. 2. Phạm vi Trong sáng kiến này, tôi chỉ nghiên cứu cách dùng ngôn ngữ thiếu trong sáng của học sinh tại một số lớp ở trường THPT Yên Thành 2. 3. Hiệu quả thu được - Các đồng nghiệp trong tổ bộ môn khi đưa sáng kiến trên áp dụng vào thực tiễn giảng dạy đều thấy việc sử dụng tiếng Việt của học sinh có những chuyển biến tích cực hơn, trong bài làm văn, các lỗi dùng từ tiếng Việt giảm đi đáng kể, kết quả 47 học tập môn Ngữ văn được nâng lên. - Hình thành ở học sinh thói quen, phong cách, năng lực sử dụng tiếng Việt trong sáng, có văn hóa. - Học sinh phát huy được những năng lực sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, sử dụng tiếng Việt trong sáng hơn, nhận ra được những khuyết điểm, hạn chế, sai lầm của bản thân khi chưa có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - tâm hồn Việt. Khi phỏng vấn một số học sinh tôi nhận được ý kiến phản hồi của các em là: Khi được tham gia vào các hoạt động ngoại khóa về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt như thi sáng tác văn chương, sân khấu hóa môn học, chúng em nhận thấy tiếng Việt của chúng ta rất trong sáng, giàu đẹp và chúng em thấy mình cần có ý thức hơn nữa, hành động cụ thể hơn nữa để gìn giữ, phát huy vẻđẹp của tiếng Việt. Mặc dù vấn đề tôi đưa ra trong sáng kiến không mới và đã có rất nhiều bài báo, các cuộc hội nghị bàn về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nhưng với sự trăn trở khi quanh mình vẫn còn những học sinh sử dụng ngôn ngữ chưa chuẩn mực trong giao tiếp; đặc biệt với tình yêu, niềm tự hào về tiếng Việt trong chính trái tim mình, tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả quan. Trước hết, bản thân tôi đã nhận thấy những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới (Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, Những yêu cầu sử dụng tiếng Việt, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt...) và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết về sự giàu đẹp của tiếng nước mình đồng thời cũng rất linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng giao tiếp. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt yêu thích môn Văn hơn, giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt. Qua kết quả thống kê, tôi nhận thấy hầu hết số học sinh được khảo sát đánh giá cao tác dụng việc sử dụng những biện pháp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, đặc biệt các em có ý thức tốt hơn khi phát ngôn, khi viết văn, số lỗi vi phạm trong các bài kiểm tra đều giảm. Lớp Sĩ số Số lỗi vi phạm Bài kiểm tra thường xuyên lần 1 Bài kiểm tra thường xuyên lần2 Bài viết giữa kỳ Bài viết cuối kỳ 12A6 40 25 16 7 2 10A6 41 22 15 8 2 48 KẾT LUẬN 1. Đóng góp của đề tài 1.1. Tính mới Với quan điểm lấy học sinh làm trung tâm, hướng tới việc đào tạo nguồn nhân lực có sự phát triển toàn diện là một trong những mục tiêu của nền giáo dục nước ta trong thế kỉ XXI. Bám sát mục tiêu ấy, đề tài thể hiện ở các mặt sau: - Xác định việc trang bị kiến thức để học sinh có thể sử dụng tiếng Việt trong sáng, lịch sự, văn minh, từ đó hướng tới việc hình thành ý thức, quan điểm cũng như kĩ năng sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn những yêu cầu về phát âm, chữ viết. - Cung cấp phương pháp học tích hợp để phát huy khả năng sáng tạo và hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và cách làm việc khoa học. 1.2. Tính khoa học Đề tài được trình bày đảm bảo tính khoa học của một công trình nghiên cứu. Hệ thống các luận điểm, luận cứ mạch lạc, hệ thống, lôgic. Đề tài dựa trên tính lí thuyết và được vận dụng vào thực tiễn một cách đúng đắn, có sức thuyết phục. Các số liệu lấy từ thực tế tại các lớp học tại trường THPT Yên Thành 2 1.3. Tính hiệu quả Qua hơn một năm áp dụng các giải pháp sử dụng tiêng Việt cho học sinh, ở những lớp tôi dạy có sự tiến bộ rõ rệt. Tôi thấy rằng để làm được việc này cũng không khó thực hiện, điều cơ bản là mỗi người cần có ý thức giữ gìn và phát huy tiếng nói của dân tộc mình. Và tôi cũng mạnh dạn thuyết phục các giáo viên thuộc các bộ môn khác cùng thực hiện theo để góp phần vào việc giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, đặc biệt là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn. Có thể khẳng định rằng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt không chỉ là giữ gìn lịch sử, văn hóa của dân tộc ngàn đời mà đó cũng là sự biết ơn các bậc tiền nhân. Xin kết thúc vấn đề bằng những câu thơ của nhà thơ Lưu Quang Vũ: “Ai lỡ đường quên giống nòi nguồn gốc, Trong tiếng Việt hãy quay về cùng tôi...”. 2. Một số đề xuất 2.1. Với các cấp quản lí Đề thực hiện đúng tinh thần của ngành đối với việc giáo dục học sinh kĩ năng tự học, các cấp quản lí cần thực sự quan tâm. Cấp sở tăng cường tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên trên cơ sở nắm được thực tế việc sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày của học sinh cũng như việc vận dụng phương pháp Ngữ Văn ở cơ sở. Quản lí cấp trường cần khích lệ động viên thầy cô giáo, học sinh, mở các đợt trao đổi việc sử dụng tiếng Việt, vẽ tranh cổ động, phương pháp dạy học tích hợp việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong tất cả các môn học cũng 49 như trong đời sống hằng ngày. Với Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc thay sách giáo khoa sắp tới cần một lần nữa chú trọng hơn trong việc đổi mới tư duy và phương pháp dạy - học tích hợp môn Ngữ văn vào trong các môn học khác. 2.2. Đối với tổ chuyên môn Tổ chuyên môn phối hợp với nhà trường nên tổ chức các buổi ngoại khoá, chuyên đề nói về ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong toàn trường. Nếu có điều kiện có thể mời các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu ngôn ngữnói chuyện văn học, nói chuyện về việc sử dung ngôn ngữ tiếng Việt để giúp cho học sinh thêm yêu tiếng mẹ đẻ đồng thời làm phong phú ngôn ngữ của dân tộc mình. 2.3. Đối với giáo viên Dạy học Ngữ văn, đặc biệt là dạy tác phẩm văn chương đòi hỏi người giáo viên phải biến giờ “giảng văn” thành giờ dạy kỹ năng đọc hiểu văn bản, luyện nghe, đọc, nói, viết thật nhiều, mục đích làm sao để các em thấy tiếng Việt thật giàu và đẹp, để từ đó các em có kỹ năng đọc hiểu những tác phẩm văn chương khác. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết, đồng thời cần có kỹ năng tổ chức tổ chức lớp học theo hướng đàm thoại, thảo luận thì tiết học mới có hiệu quả. Nội dung dạy học của giáo án cần phải làm rõ những tri thức, kỹ năng cần hình thành. Phải chú trọng thiết kế các tình huống sử dụng tiếng Việt trong thực tế đời sống và tương ứng là các hoạt động phức hợp để học sinh vận dụng phối hợp tri thức, kỹ năng của các môn vào xử lý các tình huống đặt ra. 2.4. Đối với học sinh Mỗi học sinh đều phải xây dựng, xác định và hình thành cho mình thói quen sử dụng tiếng Việt trong sáng, lành mạnh, xây dựng phương pháp học tập đúng đắn theo hướng ngày càng chủ động liên hệ, vận dụng, tích hợp kiến thức của nhiều môn, nhiều bài để giải quyết nhiệm vụ học tập. Từ đó, học sinh có khả năng để hình thành những kĩ năng sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn phong cách. Trên đây là một số kinh nghiệm trong dạy học tôi, đặc biệt là trong việc áp dụng một số giải pháp nhằm góp phần khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của một bộ không nhỏ học sinh hiện nay. Mặc dù kinh nghiệm còn ít ỏi, nhưng trong quá trình thực hiện sáng kiến này tôi cũng có nhiều trăn trở với sự nghiệp trồng người. Bằng tâm huyết, với khả năng vốn có của mình, người viết muốn đưa đến cho giáo viên, những đồng nghiệp một vài suy nghĩ và đóng góp để tham khảo, giúp chúng ta thành công hơn trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và xây dựng đất nước. Thay lời kết, tôi muốn nhắc một câu tôi còn nhớ ở đâu đó: lớp học như một dàn nhạc mà ở đó người thầy giáo được xem như một nhạc trưởng còn các học sinh là nhạc công. Người nhạc trưởng chỉ huy cả dàn nhạc chứ không chơi nhạc mà người trực tiếp tạo ra tiếng nhạc là nhạc công. Xin trân trọng cảm ơn! 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Văn Đồng, “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản) số 4 năm 1966. 2. Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục- đào tạo, NXB Chính trị Quốc gia, 1999. 3. Cuộc thi “Tôi yêu tiếng nước tôi” do I love my voice tổ chức (https://www.facebook.com) 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.341, 345, 33. 5. Nhiều tác giả, Từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, 2006. 6. Bùi Khánh Thế, Học tập di sản ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 7. Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. 8. Minh Tư, “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Việc không của riêng ai”, Báo Giáo dục và Thời đại, 17/9/2017. PHỤ LỤC Phụ lục 1: MỘT SỐ ĐỀ ĐỌC HIỂU, NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Đề số 1: Phần 1. Đọc - hiểu Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu sau: Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, cần phải huy động sự tham gia tích cực của gia đình, nhà trường và xã hội. Trước hết, trong mỗi gia đình, bố mẹ phải có ý thức uốn nắn lời ăn tiếng nói hàng ngày của con cái. Nếu bố mẹ nói năng không chuẩn mực, thiếu văn hóa thì con cái sẽ bắt chước. Đặc biệt, trong nhà trường, việc rèn giũa tính chuẩn mực trong sử dụng tiếng Việt cho học sinh phải được xem là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên... Ngoài ra, các phương tiện thông tin đại chúng cũng phải tuyên truyền và nêu gương trong việc sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn mực, đồng thời tích cực lên án các biểu hiện làm méo mó tiếng Việt. Câu 1. Đoạn văn trên đề cập đến vấn đề gì? Câu 2. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn văn? Câu 3. Tại sao trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, phải huy động sự tham gia tích cực của gia đình, nhà trường và xã hội? Câu 4. Theo anh/chị, chuẩn mực tiếng Việt được thể hiện ở những mặt nào? Phần 2: Làm văn Câu 1: Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở giới trẻ ngày nay. Đề số 2: Làm văn (Nghị luận xã hội) Trong quyển lưu bút cuối năm học, học sinh viết:“Nhưng mìn hứa sẽ mãi lè bẹn thân đeng wên teo dzà mái trừng iu zấu nì nha”. Xin tạm dịch: “Nhưng mình hứa sẽ mãi là bạn thân, đừng quên tao và mái trường yêu dấu này nha”.Và đây nữa:“Gửi mail nhớ thim cái đuôi @ da heo chấm cơm nha, mi u bit ko, năm nay lại ko được học chung dzới nhau gùi”. Tạm dịch là: “Gửi mail nhớ thêm cái đuôi @ da heo chấm cơm nha, mấy bạn biết không, năm nay lại không được học chung với nhau rồi. Phần chữ in đậm trong đoạn văn trên là những câu trích trong cuốn lưu bút của học sinh lớp 8 một trường chuyên Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh”. (Trích Ngôn ngữ chat, Ngọc Mai, Việt Báo, 18/5/2006) Hiện nay, trong sinh hoạt và học tập, một bộ phận lớp trẻ có thói quen sử dụng tiếng lóng trên mạng, còn gọi là “ngôn ngữ chat”, “ngôn ngữ SMS”, “ngôn ngữ @”, như trong đoạn trích trên. Anh/chị hãy viết bài văn ngắn khoảng 400 từ bày tỏ ý kiến của mình về việc này. Phụ lục 2 1. Bài thơ: Tiếng Việt (Lưu Quang Vũ) Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre. Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê. Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời... “Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt...” Đi mòn đàng dứt cỏ đợi người thương Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót Ta như chim trong tiếng Việt như rừng. Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa Óng tre ngà và mềm mại như tơ. Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh Như gió nước không thể nào nắm bắt Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh. Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy Một tiếng “vườn” rợp bóng lá cành vươn Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng "suối" Tiếng “heo may” gợi nhớ những con đường. Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng Vẫn tiếng “làng”, tiếng “nước” của riêng ta Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất Nàng Mị Châu qùy gối lạy cha già. Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời. Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng Cao quí thâm trầm rực rỡ vui tươi Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ. Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt. Mỗi sớm dậy nghe bốn bể thân thiết Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi Như vị muối chung lòng biển mặn Như dòng sông thương mến chảy muôn đời. Ai thuở trước nói những lờithứ nhất Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt Ai người sau nói tiếp những lời yêu? Ai phiêu bạt nơi chân trời góc bể Có gọi thầm tiếng Việt giữa đêm khuya? Ai ở phía bên kia cầm súng khác Cùng tôi trong tiếng Việt quay về. Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình... (Lưu Quang Vũ - Thơ và Đời. NXB Văn hoá - Thông tin. H.1999.tr.322-325) 2. Một số hình ảnh khác Hồ Chí Minh - Người là tấm gương mẫu mực trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Ngày 5/11 tại Trung tâm phát thanh Quốc gia 58 Quán sứ, Hà Nội, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) phối hợp với Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học quốc gia “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đại chúng” Một số bìa sách Học sinh vẽ tranh tuyên truyền về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
File đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_gop_phan_khac_phuc_tinh_trang_su_dung.pdf