SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường Mầm non

Trường Mầm Non Đại Lai là đơn vị trực thuộc Phòng giáo dục và đào tạo huyện Gia Bình quản lý. Trường được thành lập năm 1992. Trường luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo. Đảng, chính quyền từ tỉnh đến địa phương, sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh học sinh nên đã trang bị được nhiều phòng học khang trang, rộng rãi, có đầy đủ đồ dùng, phương tiện và trang thiết bị kịp thời như các đồ dùng, máy tính, ti vi . Để phục vụ cho việc dạy và học của cô và trò trên lớp.

 Ban giám hiệu nhà trường có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực và năng động trong công tác, luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, luôn tạo điều kiện tốt nhất về mọi mặt để giúp giáo viên phát huy hết năng lực của mình. Mặt khác, phòng giáo dục cũng như nhà trường thường xuyên mở các chuyên đề bồi dưỡng đổi mới hình thức dạy và học tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên được thường xuyên học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn, đội ngũ giáo viên của trường có chuyên môn, sáng tạo trong các hoạt động.

 Bản thân là giáo viên lớp 24- 36 tháng tuổi, tôi rất yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công tác. Đặc biệt giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng là lĩnh vực mà tôi yêu thích. Đồng thời trẻ đi học đều giúp quá trình học tập và rèn luyện được thường xuyên.

 

docx26 trang | Chia sẻ: Mạc Dung | Ngày: 13/01/2025 | Lượt xem: 60 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
 Nội dung Trang
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 2
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4
1. Thực trạng việc tổ chức một số biện pháp giúp trẻ biết tự phục 4
vụ 
 a. Ưu điểm........................... .................................. 4
b. Hạn chế và nguyên nhân......................................... 4
 5
2. Các biện pháp nâng cao chất lượng giúp trẻ tự phục vụ, giữ 
gìn sức khỏe ở trong trường mầm non
 5 - 7
 a, Biện pháp 1:
 b, Biện pháp 2: 7 - 10
 c, Biện pháp 3: 11 - 14
 d, Biện pháp 4: 15 - 16
 e, Biện pháp 5: 16 - 18
3. Kết quả 18 - 19
4. Kết luận 19
5. Kiến nghị, đề xuất 19 - 20
PHẦN III: MINH CHỨNG HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP 20
PHẦN IV: CAM KẾT 20
PHỤ LỤC 22
 2 dẫn trẻ tự làm một số việc đơn giản thì trẻ vẫn biết vâng lời mà tính độc lập vẫn 
phát triển. 
 Nhà trường luôn xác định chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ quan trọng 
hàng đầu. Một trong những mục tiêu giáo dục cơ bản của nhà trường hàng năm là 
giáo dục cho trẻ làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe nhằm giúp 
trẻ phát triển tốt về mọi mặt. Nếu trẻ được làm quen với một số việc tự phục vụ, 
giữ gìn sức khỏe trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống 
nền tảng và hình thành những kỹ năng tích cực, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên 
bốn lĩnh vực nền tảng: thể chất, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần. Từ đó, xây dựng cho 
trẻ những kỹ năng sớm hòa nhập với môi trường xung quanh. 
 Năm học 2021-2022, tôi được phân công phụ trách nhóm 24 - 36 tháng tuổi. 
Qua quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ tôi nhận thấy đa số trẻ có sức khỏe tốt. Tuy 
nhiên, đầu năm học trẻ đến lớp chưa có nề nếp, ra vào lớp tự do, không biết cất 
đồ dùng ba lô, giày dép, không biết cất, xếp đồ chơi gọn gàng sau khi chơi, không 
biết tự đi vệ sinh, rụt rè và thụ động trong các hoạt động khác. Chỉ có một vài trẻ 
tự tin trong trong hành động và giao tiếp với cô và các bạn. Đó là kết quả của việc 
cha mẹ luôn nghĩ con còn quá nhỏ nên đã tự làm giúp con mọi việc mà không biết 
mình đã vô tình tước đi cơ hội để con được tự lập. Những đứa trẻ được bao bọc 
quá kỹ sẽ luôn dựa dẫm, nhút nhát và không biết cách xử lí những vấn đề chẳng 
may xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Điều này có thể hình thành ở trẻ tính tự ti 
hay ích kỉ, coi mình là “trung tâm”, từ đó làm hạn chế tính tự lập của trẻ. 
 Xuất phát từ những vấn đề đó, tôi luôn trăn trở và tìm ra “Một số biện pháp 
giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường mầm 
non” để giúp trẻ bước đầu có được kỹ năng tự lập, tự phục vụ không chỉ ở trường 
mà còn cả ở gia đình và ngoài xã hội.
 4 trang thiết bị kịp thời như các đồ dùng, máy tính, ti vi . Để phục vụ cho việc 
dạy và học của cô và trò trên lớp.
 Ban giám hiệu nhà trường có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực 
và năng động trong công tác, luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên trong các buổi 
sinh hoạt chuyên môn của tổ, luôn tạo điều kiện tốt nhất về mọi mặt để giúp giáo 
viên phát huy hết năng lực của mình. Mặt khác, phòng giáo dục cũng như nhà 
trường thường xuyên mở các chuyên đề bồi dưỡng đổi mới hình thức dạy và học 
tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên được thường xuyên học hỏi và nâng cao trình 
độ chuyên môn, đội ngũ giáo viên của trường có chuyên môn, sáng tạo trong các 
hoạt động.
 Bản thân là giáo viên lớp 24- 36 tháng tuổi, tôi rất yêu nghề mến trẻ, nhiệt 
tình trong công tác. Đặc biệt giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng là lĩnh vực mà tôi 
yêu thích. Đồng thời trẻ đi học đều giúp quá trình học tập và rèn luyện được 
thường xuyên.
 b. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế:
 - Khả năng nhận thức của trẻ là không đồng đều, có một số trẻ còn chưa biết 
nói, hoặc nói chưa thạo nên sẽ gây khó khăn cho trẻ trong việc thể hiện ý muốn 
của mình cho cô giáo. Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn yếu, còn rụt rè nhút nhát 
nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu 
được trẻ. Bên cạnh đó có những trẻ nghe những không hiểu được các yêu cầu của 
cô, thích tự làm theo ý mình nên sẽ gây khó khăn cho tôi trong việc rèn các trẻ đó.
 - Đây là nội dung giáo dục còn khá mới mẻ trong chương trình giáo dục mầm 
non mới vì vậy có rất ít tài liệu để tham khảo và tìm hiểu.
 - Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho 
trẻ.
 - Lớp có 20 trẻ trong khi đó có 10 trẻ mới bắt đầu đi học nên chưa có nề nếp.
 - Trẻ còn bị ảnh hưởng do cuộc sống hiện đại như: intrenet, tivi, các trò chơi 
điện tử.....nên trẻ không có hứng thú với các kỹ năng tự phục vụ.
 6 - Trẻ chào hỏi cô giáo, ông bà bố mẹ khi đến lớp và khi ra về.
 - Trẻ biết tự đi đến bàn ăn, tự xúc cơm, tự uống nước, ăn xong xếp bát, thìa 
vào chỗ quy định theo sự hướng dẫn của cô.
 - Dạy trẻ biết mời người xung quanh ăn cơm, biết yêu cầu (lấy nước, cho 
thêm canh) một cách lễ phép.
 - Dạy trẻ nhận biết cốc, tủ đựng đồ cá nhân theo đúng kí hiệu riêng.
 * Tập cho trẻ một số thói quen tốt về vệ sinh cá nhân và một số công việc 
tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe.
 - Cho trẻ làm quen một số việc tự phục vụ khi đi ngủ như: tự đi vệ sinh 
trước khi đi ngủ, tự lấy gối và lên giường đi ngủ.
 - Biết gọi cô khi quần áo bị bẩn, ướt, yêu cầu cha mẹ, cô giáo mặc quần áo 
ấm, quàng khăn khi trời lạnh, hoặc cởi bớt quần áo khi trời nóng.
 * Tập cho trẻ làm quen 
 với cách chăm sóc, bảo vệ cơ thể.
 - Bước đầu cho trẻ làm quen với cách rửa tay, lau mặt vào các thời điểm 
trước và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi đi ngủ dậy . dưới sự hướng dẫn 
của cô.
 - Giáo dục trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh lớp học: giữ gìn đồ chơi sạch sẽ, 
sắp xếp gọn gàng, bỏ rác vào nơi quy định; không khạc nhổ bừa bãi ra lớp.
 Từ việc xác định được nội dung cho trẻ làm quen với một số việc tự phục 
vụ, giữ gìn sức khỏe tôi đã lập kế hoạch giáo dục chi tiết, đưa các nội dung cụ thể 
vào mỗi chủ đề như sau:
 Chủ đề Kĩ năng
 - Trẻ nhận ký hiệu và cất đồ dùng cá nhân vào tủ.
 Bé và các bạn
 - Cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định.
 8 dùng, trang thiết bị hỗ trợ trẻ tự phục vụ chúng tôi đã mạnh dạn tham mưu với 
Ban giám hiệu nhà trường thỏa thuận phụ huynh mua sắm một số đồ dùng cá nhân 
như: ca, cốc, gối, khăncho trẻ và xin chủ trương vận động phụ huynh ủng hộ 
thêm một số đồ dùng, các nguyên vật liệu để phục vụ cho hoạt động giáo dục trẻ 
như: xốp màu, đề can, giấy màu, hồ dán, keo nến để phục vụ cho hoạt động 
trang trí lớp cũng như làm đồ dùng đồ chơi tại các góc chơi.
 Từ những nguyên vật liệu đó cùng với việc sưu tầm những hình ảnh đẹp, 
ngộ nghĩnh, chúng tôi đã trang trí các góc trong và ngoài lớp thu hút sự chú ý của 
trẻ. Bên cạnh đó, cũng luôn quan tâm đến việc sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng, 
thuận tiện, trẻ dễ thấy, dễ lấy và dễ cất. Cụ thể:
 + Khu vực đặt tủ đựng đồ dùng cá nhân của trẻ: Chúng tôi dán tên và hình 
ảnh ký hiệu của trẻ vào cánh tủ giúp trẻ cất đồ dùng cá nhân vào đúng tủ của mình. 
 Hình ảnh tủ cá nhân của trẻ với ký hiệu cụ thể 
 và gắn quy trình cất túi/ ba lô vào tủ
 10 vòi rửa tay để trẻ có thể nhìn. Ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi cô giáo còn phải hỗ trợ 
trẻ rửa tay rửa mặt, nhưng khi cô thực hiện cho trẻ cũng giới thiệu các ký hiệu và 
các bước thực hiện để trẻ bước đầu hình thành thói quen và ghi nhớ. Khăn mặt 
được ký hiệu bằng những hình ảnh ngộ nghĩnh, gần gũi với sở thích của trẻ như 
hình mặt cười, hình quả táo, quả cam... để thu hút sự chú ý, kích thích trẻ thích 
thú tham gia vào thực hiện lao động tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày. 
 Bên cạnh việc xây dựng môi trường vật chất trong và ngoài lớp thì tôi cũng 
luôn tìm cách tạo ra cho trẻ một bầu không khí vui tươi, lành mạnh, thoải mái 
giúp trẻ được vui chơi, khám phá đạt hiệu quả cao nhất. Tạo môi trường giao tiếp 
thân thiện giữa giáo viên và trẻ, trẻ với trẻ, giáo viên với giáo viên, trẻ với mọi 
người xung quanh để mang lại xúc cảm, tình cảm và sự tự tin, cảm giác an toàn, 
thôi thúc trẻ tự hoạt động. Cụ thể: 
 + Quan tâm đến biểu hiện của trẻ để kịp thời phát hiện những cảm xúc 
vui, buồn, những biểu hiện khác lạ để kịp thời động viên, khích lệ trẻ trong khi 
trẻ hoạt động. 
 Ví dụ 1: Trong giờ đón trẻ buổi sáng. Tôi luôn ân cần, niềm nở đón trẻ và 
chú ý tới tâm lý, sức khỏe cũng như những thay đổi của trẻ. Biết trẻ rất thích được 
khen nên chỉ đơn giản là: Hôm nay con mặc bộ quần áo này xinh quá, hôm nay 
mẹ đan tóc cho con gái đẹp quácũng giúp cho trẻ có một ngày mới vui vẻ, hứng 
thú hơn và tự giác cất đồ dùng cá nhân vào tủ.
 + Cho trẻ tự chọn hoạt động để làm, tự chọn trò chơi để chơi. Cô làm cùng 
trẻ, chơi cùng trẻ, nghĩ cách nghĩ của trẻ, chơi kiểu chơi của trẻ... tạo cho trẻ cảm 
giác giáo viên thực sự là một “người bạn nhỏ” của chúng. 
 + Cùng trẻ lưu lại những kết quả trong các hoạt động thông qua sản phẩm, 
những hình ảnh đáng yêu của giáo viên và trẻ trong các hoạt động. Cuối ngày giáo 
viên cùng trẻ xem lại, trẻ tự xem, tự nói lên cảm xúc, nhận xét của mình về bức 
ảnh, về các sản phẩm của mình. Cô khen ngợi để tạo động cơ, thúc đẩy nhu cầu 
hoạt động của trẻ. 
 12

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_thang_tuoi_biet_tu_phuc.docx
  • docxbiên bản Hường.docx
Sáng Kiến Liên Quan