SKKN Một số biện pháp dạy kĩ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp D3 trong trường Mầm non Đông Cứu

Tìm hiểu về trẻ:

 Tìm hiểu đối tượng trẻ là phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý chung của lứa tuổi. Nắm bắt được rõ đặc điểm của lứa tuổi, người giáo viên sẽ dễ dàng hiểu trẻ, có cách giao tiếp phù hợp với trẻ, hay lựa chọn nội dung, hình thức giáo dục phù hợp nhằm mang lại kết quả tốt nhất trong giảng dạy.

 Bên cạnh việc nắm bắt tâm sinh lý chung của lứa tuổi, giáo viên phải hiểu rõ từng trẻ của mình: Hoàn cảnh gia đình, thói quen của trẻ, tính cách trẻ, sở thích. Đây là việc hết sức quan trọng để giáo viên lập được kế hoạch giáo dục chung cho cả lớp, bên cạnh đó đảm bảo yếu tố cá nhân từng trẻ. Giáo viên chủ động trò chuyện với trẻ mọi lúc khi có cơ hội, tạo cho trẻ niềm tin nơi cô, để trẻ mạnh dạn chia sẻ những suy nghĩ của mình, hoặc không ngần ngại khi cần sự giúp đỡ hay tò mò về một vấn đề cần giải đáp. Làm được điều này không dễ, nên giáo viên cần kiên trì, thực lòng yêu thương trẻ chắc chắn cô sẽ là “Người bạn .

 

docx42 trang | Chia sẻ: Mạc Dung | Ngày: 13/01/2025 | Lượt xem: 107 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp dạy kĩ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp D3 trong trường Mầm non Đông Cứu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 UBND HUYỆN GIA BÌNH
 TRƯỜNG MẦM NON ĐÔNG CỨU
 SÁNG KIẾN ĐỀ NGHỊ THẨM ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ 
 CẤP TRƯỜNG
 TÊN SÁNG KIẾN:
 “MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ NHÀ TRẺ 
24 – 36 THÁNG TUỔI TẠI LỚP D3 TRONG TRƯỜNG MẦM NON ĐÔNG 
 CỨU”
 Tác giả Sáng kiến: Nguyễn Thị Thủy
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường mầm non Đông Cứu
 Lĩnh vực: Phát triển tình cảm - kỹ năng xã hội
 Tháng 1 năm 2024
 1 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ
 KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
 1. Tên sáng kiến:
 “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại 
lớp D3 trong trường mầm non Đông Cứu” 
 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:
 Sáng kiến được áp dụng lần đầu thực tiễn tại Trường MN Đông Cứu từ tháng 
09 năm 2022 đến tháng 1 năm 2024.
 3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có): Không.
 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm:
 Có thể có những người nghĩ rằng các biện pháp đề ra trong sáng kiến phải là 
những gì cao siêu và khó làm nhưng thực ra chỉ là sự đồng lòng quyết tìm thực hiện 
một số biện pháp để tạo hứng thú cho trẻ khi khám phá khoa học.
 Từ cán bộ quản lý nhà trường tới giáo viên như thiết kế môi trường hoạt động 
trong và ngoài lớp, việc mua sắm và làm đồ dùng giáo dục kỹ năng tự phục vụ từ 
nguyên vật liệu sẵn có để bổ sung vào những đồ dùng còn thiếu trong nhà trường, 
nên việc tổ chức các hoạt động giáo dục khám phá khoa học của trẻ ngày càng tốt 
hơn, hứng thú hơn ... hay việc phối hợp với phụ huynh trong quá trình thực hiện 
chuyên đề..... Tất cả những việc làm của giáo viên chúng tôi trước hết là nhằm mục 
đích giúp cho trẻ mạnh dạn tự tin hơn nhiều khi tham gia vào hoạt động, trẻ yêu 
thích các trò chơi trong tiết học hay các giờ học giáo dục kỹ năng tự phục được tổ 
chức trong lớp cũng như ngoài lớp. Qua đó cũng là góp phần thực hiện tốt các 
chuyên đề mà giáo dục Bắc Ninh đề ra cho bậc học giáo dục mầm non của tỉnh nhà.
 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến:
 3 - Tìm hiểu về trẻ:
 Tìm hiểu đối tượng trẻ là phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý chung của lứa 
tuổi. Nắm bắt được rõ đặc điểm của lứa tuổi, người giáo viên sẽ dễ dàng hiểu trẻ, 
có cách giao tiếp phù hợp với trẻ, hay lựa chọn nội dung, hình thức giáo dục phù 
hợp nhằm mang lại kết quả tốt nhất trong giảng dạy.
 Bên cạnh việc nắm bắt tâm sinh lý chung của lứa tuổi, giáo viên phải hiểu rõ 
từng trẻ của mình: Hoàn cảnh gia đình, thói quen của trẻ, tính cách trẻ, sở thích. 
Đây là việc hết sức quan trọng để giáo viên lập được kế hoạch giáo dục chung cho 
cả lớp, bên cạnh đó đảm bảo yếu tố cá nhân từng trẻ. Giáo viên chủ động trò 
chuyện với trẻ mọi lúc khi có cơ hội, tạo cho trẻ niềm tin nơi cô, để trẻ mạnh dạn 
chia sẻ những suy nghĩ của mình, hoặc không ngần ngại khi cần sự giúp đỡ hay tò 
mò về một vấn đề cần giải đáp. Làm được điều này không dễ, nên giáo viên cần 
kiên trì, thực lòng yêu thương trẻ chắc chắn cô sẽ là “Người bạn .
 b, Biện pháp 2: Dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong 
ngày.
 Với trẻ mầm non, giáo dục kỹ năng sống không thể tách riêng thành một môn 
học riêng biệt, nó phải được tiến hành thông qua các hoạt động giáo dục khác trong 
ngày, ở mọi lúc mọi nơi. Người giáo viên cần tìm tòi đổi mới các hình thức tổ chức 
để mọi kiến thức giáo dục mình muốn truyền tải đến trẻ đều nhẹ nhàng, tự nhiên và 
hiệu quả.
- Hoạt động đón, trả trẻ: 
+ Rèn kỹ năng lao động tự phục vụ: 
 + Rèn kỹ năng giao tiếp:
 Đầu năm đón trẻ tôi chào trẻ trước với lời nói dịu dàng, vòng tay trước ngực sau 
đó yêu cầu trẻ chào lại cô. Nhắc trẻ chào cô lễ phép, sau đó vòng tay chào người 
đưa mình tới lớp.
 c, Biện pháp 3: Tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
 5 * Kết quả của sáng kiến:
 Giáo viên phải nắm vững phương pháp, nội dung, hình thức tổ chức các hoạt 
động chăm sóc giáo dục trẻ. Tổ chức hoạt động phải thoải mái không gò bó áp đặt 
trẻ. Luôn luôn động viên khuyến khích trẻ kịp thời khi trẻ tham gia mọi hoạt động.
 Kết hợp giữa gia đình và nhà trường thống nhất nội dung, biện pháp giáo dục 
kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
 Để giúp trẻ có những kiến thức về kỹ năng tự phục vụ thì giáo viên cần không 
 ngừng học tập, bồi dưỡng nghiên cứu, để nâng cao trình độ chuyên môn, hiểu 
 biết của mình về việc tổ chức chăm sóc cũng như giáo dục trẻ.
 Trẻ biết tự làm một số công việc tự phục vụ mà không cần đến sự giúp đỡ của 
cô như: Tự lấy ghế ngồi vào tổ khi đến lớp, lấy ghế ngồi vào bàn khi ăn, tự cầm 
thìa xúc cơm ăn, rửa tay lau mặt, cất đồ dùng đồ chơi đúng chỗ, xếp ghế khi ăn 
xong, lấy gối đi ngủ 
 Bên cạnh đó trong quá trình chơi với bạn hợp tác, nhường nhịn nhau hơn, biết chơi cùng 
bạn và biết giúp đỡ bạn. Hợp tác thành thật chia sẻ với mọi người xung quanh và bạn 
bè.
 - 100% trẻ đều hứng thú tham gia các hoạt động. Sự mạnh dạn, tự tin được tăng 
lên. 
- 100% trẻ được mở rộng kiến thức và có thêm nhiều hiểu biết về các kỹ năng mà 
trẻ đã được học. 
- Qua việc thường xuyên tham gia vào các hoạt động, nhận thức và thể lực của trẻ 
được nâng cao rõ rệt. Trẻ nhanh nhẹn, năng động hơn trong giao tiếp. 
- Hầu hết trẻ đều có ý thức, biết yêu thương, giúp đỡ nhau.
 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến:
 Sáng kiến có thể áp dụng cho tất cả các nhóm lớp 24 - 36 tháng tuổi trong 
toàn huyện.
 7 MỤC LỤC
 NỘI DUNG Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1 – 2
1. Mục đích của sáng kiến 1 
2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến. 1 - 2
3. Đóng góp của sáng kiến 2
PHẦN II: NỘI DUNG 2 - 4
Chương 1: Khái quát thực trạng vấn đề mà sáng kiến tập trung 2 - 4 
giải quyết
Chương 2: Những biện pháp đã được áp dụng thử tại lớp 4 – 14
1. Mô tả cách thực hiện 4 – 14
 a, Biện pháp 1: Tìm hiểu đối tượng trẻ và lựa chọn các nội dung giáo 4 - 8
dục phù hợp với trẻ.
b, Biện pháp 2: Dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động 8 – 12
trong ngày.
c, Biện pháp 3: Tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 12 - 13
d, Biện pháp 4: Tuyên truyền phối hợp phụ huynh trong việc giáo dục 13 - 14 
kỹ năng sống cho trẻ.
Chương 3: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của sáng kiến 14 - 15
PHẦN III: KẾT LUẬN 15 – 
 16
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến. 15 - 
2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến. 15 - 16
3. Kiến nghị với cấp quản lý 16
PHẦN 4: PHỤ LỤC 17
 9 gánh nặng cho cả gia đình và xã hội, đó là những hậu quả lâu dài như: Thương tật 
vĩnh viễn, sang chấn tâm lý, mất khả năng đi lại, học tập... 
 Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ, đặc biệt với trẻ mầm non thì đây là 
nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ với cô giáo mầm non mà của toàn xã hội. 
Nhưng vai trò của giáo viên mầm non là chủ đạo vì các cô là người chăm sóc giáo 
dục trẻ hàng ngày, là người làm hạn chế và giảm thiểu đến mức thấp nhất tai nạn 
thương tích, giúp cho trẻ phát triển và trở thành chủ nhân tương lai của đất nước 
hoàn toàn khỏe mạnh, mang lại hạnh phúc cho mọi người. 
 Từ nhận thức trên, là một giáo viên mầm non năm học này tôi được phân công 
dạy lớp 24 - 36 tháng tuổi D3, với nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường trong năm 
học 2023 - 2024 là “Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ trong trường mầm non” vì 
vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng đề tài: “Một số biện pháp phòng tránh 
tai nạn thương tích cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi ở trường mầm non Đông Cứu”. 
 - Mục đích của đề tài là để giảm thiểu tai nạn thương tích cho trẻ 24 - 36 tháng 
tuổi nói riêng và trẻ trong trường mầm non Đông cứu nói chung, tìm ra nhiều biện 
pháp phòng tránh tai nạn thương tích và đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ mọi lúc 
mọi nơi.
 2. Tính mới và ưu điểm của sáng kiến
 - Với các biện pháp của sáng kiến này có nhiều điểm khác và mới so với các 
biện pháp trước đây đã áp dụng. Như trước đây khi trẻ gặp tai nạn thương tích, 
nhiều người lại cho đó là rủi ro, hoặc một lý do nào đó, để trẻ được đảm bảo an 
toàn thỉ phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn, cô giáo... Nhưng khi áp dụng các biện 
pháp mới này thì trẻ cũng đã có được một số các kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi 
cần thiết, nhận biết được những nơi có nguy cơ gây tai nạn cho mình mà trước đây 
trẻ chưa làm được. 
 - Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích 
cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi ở trường mầm non Đông Cứu” được áp dụng thực hiện 
tại lớp 24 – 36 tháng tuổi D3 trường mầm non Đông cứu năm học 2023 – 2024.
 11 Sân trường phẳng, có nhiều đồ chơi ngoài trời với nhiều chủng loại và kiểu 
dáng khác nhau.
 Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp 
bồi dưỡng cách phòng và xử lý tai nạn thương tích cho trẻ.
 Giáo viên, nhân viên có trình độ chuyên môn chuẩn và trên chuẩn, tâm huyết 
với nghề, tận tụy công việc, yêu nghề mến trẻ và luôn quan tâm tới sự an toàn của 
trẻ.
 2. Khó khăn
 - Các lớp có số lượng trẻ quá đông
 - Đồ dùng, đồ chơi còn nhiều loại có kích cỡ nhỏ, giá đồ chơi cao.
 - Tranh ảnh, các bài tuyên truyền về phòng tránh tai nạn thương tích còn ít. 
 - Tủ thuốc cá nhân của lớp chưa có.
 - Nhận thức của trẻ 24 – 36 tháng tuổi còn hạn chế về kiến thức và kĩ năng 
phát hiện những nguy cơ gây thương tích.
 - Kỹ năng phòng tránh và xử lý các tai nạn thương tích cho trẻ của giáo viên 
còn chưa thuần thục.
 - Kiến thức về xử trí khi có tai nạn của giáo viên chưa sâu, đôi khi còn lúng 
túng.
 - Việc lồng ghép giáo dục kĩ năng phòng tránh tai nạn thương tích vào các 
hoạt động đôi khi còn chưa phù hợp, còn ngượng ép.
 - Các bài hát, bài thơ, câu truyện có nội dung giáo dục phòng tránh tai nạn 
thương tích còn hạn chế.
 - Phối hợp với phụ huynh chưa thường xuyên, trực tiếp do cha mẹ trẻ đi làm, 
trẻ do ông bà, anh chị đưa đón.
 - Trẻ được phụ huynh quan tâm, chăm sóc, bảo bọc nhiều nên đa số trẻ chưa 
có kỹ năng nhận biết các nguy cơ không an toàn và phòng tránh tai nạn thương 
tích.
 13

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_day_ki_nang_song_cho_tre_nha_tre_24_36.docx
Sáng Kiến Liên Quan