SKKN Lựa chọn ngữ liệu đọc - hiểu trong đề thi môn Ngữ văn nhằm tạo hứng thú, nâng cao nhận thức, góp phần bồi dưỡng nhân cách cho học sinh
Tầm quan trọng của đọc hiểu nói chung trong môn Ngữ văn.
GS.TS. Trần Đình Sử trong “Đột phá từ đọc hiểu văn bản” đã chỉ ra vai
trò của đọc hiểu đối với việc tiếp nhận giá trị thông tin văn bản trên phương diện
rộng trong cuộc sống mà học sinh bắt gặp. “Đọc hiểu văn bản có tác dụng giúp
học sinh trực tiếp tiếp nhận giá trị văn học, thể nghiệm tư tưởng và cảm xúc
được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng. Vì thế dạy
văn là dạy năng lực và kĩ năng để học sinh có thể đọc hiểu được bất cứ loại văn bản
nào cùng loại”.
Tầm quan trọng của đọc hiểu còn được tác giả Nguyễn Thị Hạnh với bài
nghiên cứu Xây dựng chuẩn năng lực đọc hiểu cho môn Ngữ văn của chương
trình giáo dục phổ thông sau 2015 ở Việt Nam đề cập đến như sau: “Đọc hiểu có
chức năng phát triển ở người đọc vào giải quyết nhiệm vụ học tập và các vấn đề
có trong cuộc sống nên đọc hiểu không chỉ là một kĩ năng mà còn là một năng
lực - năng lực đọc hiểu. Năng lực đọc hiểu được bắt đầu hình thành từ môn học
Ngữ văn, vì vậy nó là một năng lực chuyên biệt của môn học này”.
Nhìn nhận vấn đề ở góc độ khác, GS. Trần Đình Sử xem đọc hiểu như
một khâu đột phá trong dạy học, góp phần khắc phục những phương pháp dạy
học cũ. Trong bài viết Từ giảng văn qua phân tích tác phẩm đến dạy học đọc
hiểu văn bản văn học, GS. Trần Đình Sử đã thẳng thắn nhận định rằng: chúng ta
không thể tiếp tục dạy học văn như cũ. Qua những bài nghiên cứu các tác giả đã
đưa ra những hướng đi mới và nhấn mạnh sự cần thiết của việc đổi mới phương
pháp dạy văn theo phương pháp đọc hiểu trong nhà trường hiện nay.
Trong Kĩ năng đọc hiểu Văn, GS. Nguyễn Thanh Hùng cũng cho rằng:
“Dạy đọc văn cung cấp cho người tiếp nhận cách đọc để có quan điểm riêng,
thái độ đúng đắn và kĩ năng đọc những sáng tạo ngôn từ theo quan điểm thẩm
mĩ, năng lực làm chủ cảm xúc riêng tư khi đã nắm được dụng ý nghệ thuật và
những biểu hiện ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm” (Nguyễn Thanh Hùng, Đọc và tiếp nhận
văn chương).
ác loại câu (câu đơn - câu ghép/ câu bình thường - câu đặc biệt - câu cảm thán - câu nghi vấn, rồi câu dài - câu ngắn) phù hợp với nội dung, cảm xúc của văn bản. - Diễn đạt phải trong sáng, giản dị mà hấp dẫn; ngắn gọn, khúc triết mà dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức, sự hiểu biết và cách suy nghĩ của từng đối tượng người đọc, người nghe. Ví dụ như ngữ liệu/đề Đọc hiểu dưới đây: Đọc đoạn trích sau: “Dân ta thông minh, hiếu học,chuộng tri thức,nhưng còn nghèo trí tưởng tượng. Hãy bình tĩnh nhìn qua các kiểu nhà biệt thự mới mọc ở thành phố thời mở cửa và dạo qua các cửa hiệu, các chợ đầy ắp hàng hóa nước ngoài, từ quần áo đến đồ chơi trẻ em, từ đồ dùng văn phòng đến xe đạp, quạt máy. Nhiều hàng nội của ta không cạnh tranh được vì thua kém cả phẩm chất, hình dáng đến mẫu mã. Thật ra đã từ lâu chúng ta quen sao chép, ít chịu khó nghĩ ra các ý tưởng mới. Nhìn lại cái giường, cái bàn cho đến cây bút, cái cặp,có thể nói năm mươi năm không hề thay đổi! Có lẽ do truyền thống học tập từ chương, khoa cử, ông bà ta bị gò bó quá nhiều, cho nên ta ít có những nhà tư tưởng lớn, ít có những công trình đồ sộ với sức tưởng tượng phóng khoáng, diệu kì. Ngay cả những tác phẩm văn học hay nhất cũng chủ yếu làm ta say đắm bởi văn chương mượt mà, gợi những tình cảm sâu sắc, tha thiết, nhưng ít có hoặc không có những pho truyện lớn với tình tiết phức tạp, ý tưởng kì lạ, tầm cỡ như Tam quốc, Thủy hử, Hồng lâu mộng hay tiểu thuyết như của V. Huy-gô, L.Tôn-xtôi, Ph. Đôt-xtôi-ép-xki... Hơn bất cứ lúc nào, câu nói của Anh-xtanh cần được khẳng định : “Tri thức mà thiếu sức tưởng tượng dễ biến thành tri thức chết, tri thức không có tiềm năng phát triển”. Biết và hiểu là cần để làm theo, noi theo chứ hoàn toàn chưa đủ để tạo ra những sản phẩm mới và có sức cạnh tranh”. (Theo Hoàng Tụy, Tạp chí Tia sáng) Thực hiện các yêu cầu: Câu 1: Trong đoạn trích, tác giả đã nêu ra những nguyên nhân nào khiến người Việt còn nghèo trí tưởng tượng ? 33 Câu 2: Anh/Chị hiểu thế nào là “tri thức chết” trong câu nói của Anh- xtanh: “Tri thức mà thiếu sức tưởng tượng dễ biến thành tri thức chết, tri thức không có tiềm năng phát triển”? Câu 3: Việc trích dẫn câu nói của Anh –xtanh trong đoạn trích nhằm mục đích gì? Câu 4: Anh/chị có đồng ý với quan điểm của tác giả: Biết và hiểu là cần để làm theo, noi theo chứ hoàn toàn chưa đủ để tạo ra những sản phẩm mới và có sức cạnh tranh? Vì sao? 2.2.6. Ngoài ra, lựa chọn ngữ liệu cần lưu ý các yếu tố sau: - Ngữ liệu tạo cơ hội "có vấn đề" để đưa ra câu hỏi đọc hiểu. - Sử dụng ngữ liệu ngoài SGK: Với ngữ liệu ngoài SGK tạo điều kiện cho HS có thể vận dụng với tình huống và ngữ liệu mới; bảo đảm nguyên tắc HS được bộc lộ, thể hiện phẩm chất, năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mĩ và tư duy của chính bản thân các em, không sao chép vay mượn. - Nguồn văn bản/ ngữ liệu: + Nguồn trích dẫn là một trong những yếu tố rất quan trọng, phải được các NXB, tòa soạn uy tín, kiểm duyệt, phát hành như: NXB Giáo dục, NXB Khoa học xã hội, báo giấy chính thống (Nhân dân, Quân đội, Văn nghệ, Tiền phong, Tuổi trẻ, Giáo dục và Thời đại, Tác giả cũng là một căn cứ để lựa chọn. Theo chúng tôi, với văn bản văn học, ưu tiên văn bản của các nhà thơ, nhà văn lớn; là các nhà văn có thái độ chính trị rõ ràng, là tác giả có tác phẩm trong chương trình SGK; với văn bản nhật dụng, ưu tiên các tác giả có uy tín (các chính trị gia, nhà văn hóa, nhà khoa học, nhà báo lớn.). + Các văn bản trích dẫn từ nguồn văn bản pháp lí, các tuyên bố cấp quốc gia và khu vực, tài liệu của các Bộ, Ngành, Bởi các văn bản này có giá trị thông tin chính xác, độ uy tín "tuyệt đối", hàm lượng khoa học cao. - Thời gian của bài báo được dùng làm nguồn tư liệu càng gần thời gian diễn ra kì thi càng tốt. Bởi nó chứng tỏ tính cập nhật, tính thời sự cao của các văn bản này trong đề thi. - Độ dài của văn bản/ngữ liệu phù hợp với thời gian làm bài. Theo chúng tôi, văn bản dùng làm ngữ liệu có độ dài khoảng 150 đến 300 chữ là phù hợp. 3. Bài tập minh họa Đề 1 Đọc đoạn trích sau: Khi ta im lặng, dừng hết mọi lao xao, buông xả hết những mong cầu hay chống đối, ta sẽ nghe được nhiều tiếng động xung quanh đang diễn ra, dù đó có là tiếng thở dài não ruột của của một người đang ở nơi xa, hay ngay cả “tiếng 34 vô thanh” của dòng sông và ngọn đồi. Cuộc sống luôn luôn hối hả vội vàng, nên dễ khiến ta quên dần thói quen lắng nghe sâu sắc bằng trái tim. Nhiều khi người kia đã nói rất rõ ràng mà ta còn chưa chịu hiểu, huống hồ họ chỉ nói nửa câu hay im lặng để ta tự suy ngẫm. Vì có những niềm đau đã giấu kín trong lòng thì không thể dễ dàng nói ra nếu người nghe không biểu lộ được sự rung cảm chân thành từ nơi trái timCho nên, phải lắng nghe và thấu hiểu chính mình thì ta mới nghe và thấu hiểu được những kẻ khác. Vậy từ bây giờ ta hãy tìm cho mình một không gian tĩnh lặng để tập nghe rõ lại từng bước chân và hơi thở của mình. Đó là những âm thanh rất gần gũi và quan trọng mà ta đã quên lãng từ lâu. Ngoài ra, ta hãy cố gắng tập im lặng lắng nghe từng dòng cảm xúc nhớ nhung hay khát khao, từng ý niệm giận hờn hay ganh ghét, những quyết định sai lầm hay những lần tự mãn, và ngay cả khi tâm tư hoàn toàn vắng lặng để ta nhận ra từng thái độ sống của mình. Chỉ cần im lặng lắng nghe mà đừng vội can thiệp hay phán xét, để ta có cơ hội hiểu hết những ngõ ngách sâu kín trong tâm hồnNhờ đó, ta sẽ có nhiều cơ hội làm chủ chính mình. Làm chủ được chính mình cũng chính là làm chủ được cuộc đời mình. Khi làm chủ được cuộc đời mình, ta mới đủ bản lĩnh mời người khác cùng tham dự mà không gây khổ lụy cho nhau, đủ sức dắt nhau đi qua những quãng đời gian khó. (Trích “Hiểu về trái tim”, Minh Niệm, NXB Trẻ 2013) Thực hiện các yêu cầu: Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng kết hợp những phương thức biểu đạt nào? Câu 2. Theo tác giả, khi nào người ta sẽ nghe được cả “tiếng động” và “tiếng vô thanh” của đời sống? Câu 3. Anh/chị hiểu thế nào là “lắng nghe chính mình”? Câu 4. Anh/chị có đồng ý với quan niệm của tác giả: phải lắng nghe và thấu hiểu chính mình thì ta mới nghe và thấu hiểu được những kẻ khác không? Vì sao? Đề 2: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Trước khi bàn về tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân tác động đến sự phát triển của xã hội như thế nào, xin hãy đi vào mấy ví dụ trong đời sống thực tế: Hãy nhìn ra những nước láng giềng của chúng ta: Ai cũng biết Singapore từ năm 1965 là một làng chài tách ra khỏi Malaysia với diện tích chỉ với 1000km2. Vậy mà, hiện nay, GDP đã là 88,8 tỉ USD, bình quân thu nhập đầu người là 21,500 USD, đứng thứ 25 trên thế giới. Những con số đó cho thấy điều gì? Trước hết, đó là do tính tính năng động sáng tạo của người cầm đầu Singapore là Lý Quang Diệu. Ấy thế mà, ngày nay, người cầm đầu mới vẫn phải 35 nói: “ Phải thay đi những gì cổ lỗ, loại đi những gì không thích hợp, sáng tạo ra những cái mới”. Nhìn vào đó đủ biết tính năng động, sáng tạo của người đứng đầu quốc gia có tầm quan trọng như thế nào đối với sự phát triển, phồn vinh của một đất nước, đến hạnh phúc của nhân dân. Vì sao Singapore ở mức cao như thế trên thế giới mà họ vẫn yêu cầu loại bỏ những cái cổ lỗ, không thích hợp, sáng tạo cái mới: Vì thế giới không ngừng biến đổi, không ngừng tiến bộ. Vì nếu dừng lại, say sưa với đỉnh cao của quá khứ và hiện tại, nghĩa là, chấp nhận chìm nghỉm trong cái “thung lũng” của tương lai”! Vì sự phồn vinh của đất nước, vì sự tiến bộ của chính mình, mỗi cá nhân phải thay đi những cái gì cổ lỗ, phải loại đi những gì không thích hợp, phải sáng tạo ra những cái mới. Ngược lại, chúng ta sẽ bị văng ra khỏi dòng chảy dữ dội của đời sống thế giới. (Theo Nguyễn Thế Long, Truyền thống gia đình và bản sắc dân tộc Việt Nam) Câu 1: Cho biết phong cách ngôn ngữ của đoạn văn? Câu 2. Văn bản đề cập đến vấn đề gì? Câu 3. Vì sao mỗi cá nhân cần thiết phải loại bỏ những cái cổ lỗ, không thích hợp, sáng tạo cái mới? Câu 4. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về việc “chấp nhận chìm nghỉm trong cái “thung lũng” của tương lai”? Đề 3: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Trong lịch sử nhân lọai, đã và đang xuất hiện những tài năng mà ánh sáng trí tuệ của họ còn soi rọi mãi về sau. Cuộc đời của họ ít gặp những nỗi gian lao. Họ sáng tạo nhẹ nhàng tự nhiên như hoa nở ban mai, như chim hót lúc bình minh. Nhưng bên cạnh những con người đó, có những con người có một cuộc đời khác hẳn. Demoxten nói ngọng và hay xấu hổ, đã hàng ngày ngậm sỏi, gào thi với sóng biển, cuối cùng trở thành nhà hùng biện vĩ đại thời cổ. M. Lômônôxôp, con người khổng lồ, phải khắc phục với nỗi tủi cực “lớn xác rồi mà vẫn chưa biết đọc” và đã trở thành nhà bác học Nga vĩ đại. Van Hốp (Hà Lan), người mắc bệnh tâm thần, nhờ kiên trì tranh đấu với bệnh tật, đã trở thành nhà bác học lừng danh, có công ty xây dựng thuyết hóa học không gian và được giải thưởng Nobel đầu tiên về hóa học. Pontriaghin bị mù hai mắt từ năm còn học lớp 6, nhưng vẫn kiên trì khắc phục khó khăn và tiếp tục học, cuối cùng trở thành nhà tóan học xuất sắc và Viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Nhiều tài năng trong số này, ngay từ bé thậm chí khi đã lớn rồi, vẫn bị rầy la là kém cỏi hoặc “bất tài”. Giêm Oát được coi là “học trò kém của lớp”, 36 còn Niu-tơn thì không được thầy cho học giáo trình vật lý và tóan học trung học. Linne bị coi là một thằng đần. Oanto Xcốt đã có lần bị một giáo sư gọi là “một thằng thộn và mãi mãi vẫn là thằng thộn”. Đácuyn bị đuổi khỏi trường đại học Êđinbua vì không có khả năng học tập và Anhxtanh bị trượt khi thi vào trường đại học bách khoa Đuyrich... Thế nhưng, những con người “bất tài” đó cuối cùng đã có những cống hiến lớn lao và đã trở thành những thiên tài để lại dấu tích bất hủ trong nền văn hóa loài người. Vậy bí quyết thành công của họ là ở chỗ nào? Sức mạnh nào thôi thúc họ vượt khó để đi đến thành công? Rõ ràng đó là nhờ ở ý chí. (Sức mạnh ý chí - Thế Trường, dẫn theo Nguyễn Quang Ninh. Sđd, tr.143) Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản? Câu 2. Văn bản trên sử dụng các thao tác lập luận nào? Câu 3. “Cuộc đời khác hẳn” mà tác giả đề cập trong văn bản có điểm gì đặc biệt so với nhiều tài năng khác? Câu 4. Anh/chị khâm phục tấm gương nào nhất trong những tấm gương được nêu ra trong văn bản. Vì sao? Đề 4: Đọc văn bản: Buổi chiều qua trảng cỏ voi Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh Gió nghiêng ngả giữa màu xanh Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang Lối mòn như sợi chỉ giăng Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân Dấu chân ai đọc nên vần Nên nào ai biết đi gần đi xa. Cuộc đời trải mút mắt ta Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường Những người sốt rét đang cơn Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?... Chiếc bòng con đựng những gì Mà đi cuối đất mà đi cùng trời Mang bao khát vọng con người Dấu chân nho nhỏ không lời không tên Thời gian như cỏ vượt lên Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua Ai đi gần ai đi xa Những gì gợi lại chỉ là dấu chân. Vùi trong trảng cỏ thời gian Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta 37 Vẫn đằm hơi ấm thiết tha Cho người sau biết đường ra chiến trường... (Dấu chân qua trảng cỏ, Thanh Thảo - Cát trắng, NXB Tác phẩm mới, 1978, tr. 25) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. Câu 2. Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong hai câu thơ sau: “Thời gian như cỏ vượt lên Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua” Câu 3. Anh/chị hãy lí giải nỗi băn khoăn của nhà thơ: Những người sốt rét đang cơn Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè? Câu 4. Thông điệp nào từ bài thơ trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị? Vì sao? Đề 5: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Cuộc sống là một bức tranh đa màu bởi nó được ghép nên từ suy nghĩ đa dạng của rất nhiều cá nhân. Chỉ khi nào ta tin tưởng vào suy nghĩ độc lập của bản thân thì khi đó một tư duy riêng biệt mới được hình thành trong ta. Đừng nghĩ rằng người khác không đồng tình với ta nghĩa là ta không đúng. Trong thực tế, đôi khi theo đuổi một cách nhìn riêng biệt sẽ giúp ta có được những cống hiến to lớn và ý nghĩa nhất cho bản thân và người khác. Vì thế, hãy trân trọng những suy nghĩ của riêng mình. Ngược lại, cũng không nên ép buộc người khác phải có cách nhìn nhận giống mình. Cố gắng thuyết phục các thành viên trong gia đình tin tưởng vào những điều mình từng trải qua là một việc làm vô nghĩa, bởi trước tiên, mỗi người đều có những trải nghiệm của riêng mình. Bên cạnh đó, mỗi người lại có tầm hiểu biết riêng và thái độ về sự hiện diện cũng như vai trò của bản thân trong cuộc sống cũng rất khác nhau. Cho rằng bằng cách nào đó, họ sẽ suy nghĩ giống ta là một điều ảo tưởng. Mỗi chúng ta trải qua tuổi thơ của mình theo những cách khác nhau và mỗi người đều có quyềngiữ những cảm nhận đó cho riêng mình. Hãy vui vẻ khi là chính mình và hãy để người khác cũng có được cảm giác ấy. (Quên hôm qua sống cho ngày mai - Tian Dayton, Ph.D, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr. 102-103) Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản. Câu 2. Theo tác giả, vì sao không nên ép buộc người khác phải có cách nhìn nhận giống mình? Câu 3. Nêu nội dung chính của văn bản. Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với ý kiến: Hãy vui vẻ khi là chính mình và hãy để người khác cũng có được cảm giác ấy? Vì sao? 38 PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Quá trình nghiên cứu: Lựa chọn được những ngữ liệu "tốt" và "hay" để xây dựng đề thi Phần Đọc hiểu môn Ngữ văn hầu như không GV/người làm đề nào là không ý thức được điều đó. Tuy nhiên, trong quá trình làm việc, tìm kiếm ngữ liệu, không ít GV còn tỏ ra lúng túng và mắc nhiều sai sót. Với đề tài này, bản thân mong muốn huy động, đúc rút chút "vốn kinh nghiệm" ít ỏi của mình, góp phần tìm hướng tháo gỡ khó khăn vừa cho bản thân vừa cho đồng nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, bản thân đã tham khảo một số tư liệu và các công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài. Chúng tôi nhận thấy, các công trình đó đã có những gợi ý, đóng góp tích cực, để từ đó, giúp chúng tôi đưa ta được nhiều giải pháp thiết thực. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát, tham khảo các ý kiến của các giáo viên trong tổ bộ môn trường THPT Nội trú tỉnh và GV môn Ngữ văn ở một số trường trên địa bàn trong tỉnh. Khi thực hiện đề tài, bản thân luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ của các đồng nghiệp, sự hợp tác của các em học sinh. 2. Ý nghĩa của đề tài: Đề tài “Một số kinh nghiệm lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn nhằm tạo hứng thú, nâng cao nhận thức, góp phần bồi dưỡng nhân cách cho học sinh” mà bản thân nghiên cứu, thực hiện và được ứng dụng không chỉ đối với những lớp do mình phụ trách mà tôi cũng đã chia sẻ với nhiều giáo viên cùng bộ môn trong trường, thậm chí ở một số trường trên địa bàn huyện Nam Đàn và Thành phố Vinh. Qua đó, không những được các đồng nghiệp hưởng ứng, đánh giá mà bản thân còn nhận thấy: Tìm kiếm, phát hiện, được những ngữ liệu tốt, không chỉ góp phần quan trọng cho thành công của đề thi mà còn góp phần phát triển được nhiều năng lực cần thiết cho học sinh; đáp ứng được những yêu cầu phức hợp mà cuộc sống hiện đại đặt ra. Bên cạnh đó, những ngữ liệu giàu tính nhân văn, nhân bản đã góp phần không nhỏ vào việc bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp và nhân cách cho HS. 3. Phạm vi ứng dụng của đề tài: Đề tài được ứng dụng vào việc tìm kiếm ngữ liệu để xây dựng đề thi, từ đề thi thường xuyên (bài kiểm tra 1 tiết), đề thi Học kì ở tất cả các khối lớp đến Đề thi thử Tốt nghiệp THPT ở một số trường mà chúng tôi trao đổi kinh nghiệm. Với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp ở một số trường THPT trong tỉnh, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm, khảo sát mức độ cảm xúc của học sinh sau khi ứng dụng đề tài lựa chọn ngữ liệu để xây dựng đề kiểm tra. Kết quả thu được như sau: 39 Trường Mức độ Rất thích Thích Không thích lắm Không thích THPT Nam Đàn 1 35% 38% 22% 5% THPT Kim Liên 41% 33% 19% 7% THPT Sào Nam 25% 48% 27% 0% THPT DTNT tỉnh 39% 36% 18% 7% THPT Lê Viết Thuật 41% 38% 21% 0% THPT Hà Huy Tập 40% 37% 23% 0% Qua số liệu thống kê khảo sát lần một, so với số liệu thống kê khảo sát lần hai (có mở rộng diện khảo sát thêm ở một số trường THPT trên địa bản TP Vinh), chúng tôi thấy: Việc vận dụng kinh nghiệm lựa chọn ngữ liệu để xây dựng đề thi đã đem lại kết quả rõ rệt. Trong giờ kiểm tra, HS tỏ ra rất hào hứng, thích thú làm bài tập đọc hiểu. Qua bài làm của HS, nhất là câu hỏi vận dụng, chúng tôi thấy, nhiều em đã bộc lộ thái độ, suy nghĩ của minh một cách chân thực và không kém phần sâu sắc. 4. Kiến nghị 4.1. Đối với Sở Giáo dục Tăng cường các buổi tập huấn chuyên môn về lựa chọn ngữ liệu và soạn câu hỏi cho Phần Đọc hiểu. 4.2. Đối với nhà trường Quan tâm, chú trọng hơn nữa đến việc đổi mới đồng bộ công tác KTĐG theo ĐHPTNL. Riêng đối với môn Ngữ văn cần chú trọng khâu lựa chọn ngữ liệu để xây dựng đề kiểm tra. 4.3. Đối với giáo viên Nâng cao ý thức và tích cực tìm kiếm các nguồn tư liệu khác nhau (văn bản văn học và văn bản thông tin), lựa chọn được những ngữ liệu thực sự "tốt" và "hay" để xây dựng các bộ đề Đọc hiểu cho học sinh luyện tập. 40 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006). Chương trình Giáo dục Phổ thông môn Ngữ văn. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006). Chương trình giáo dục phổ thông - Những vấn đề chung. NXB Giáo dục. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013). Kỷ yếu Hội thảo Khao học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học. 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh môn Ngữ văn. 6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Tài liệu Hội thảo Đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông (Lưu hành nội bộ). 7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Công văn số 4099/BGDĐT-GDTrH về Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục Trung học năm học 2014-2015. 8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học của Vụ Giáo dục Trung học. 9. Bùi Mạnh Hùng (2014). Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Tp.HCM, số 56 10 Đỗ Ngọc Thống (2002). Đổi mới việc dạy và học Ngữ văn ở Trung học cơ sở. NXB Giáo dục. 10. Đỗ Ngọc Thống (2014). Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam và hướng phát triển sau 2015. 11. (Truy xuất từ https://phebinhvanhoc.com.vn/chuong trinh ngu van trong nha truong pho thong viet nam và huong phat trien sau 2015). 12. Đỗ Anh Dũng (2019). Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh. (Truy xuất từ: https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao- ductrunghoc). 13. Nguyễn Công Khanh, Đào Thị Oanh, Lê Mỹ Dung (2014). Kiểm tra đánh giá trong giáo dục. (NXB Đại học Sư phạm Hà Nội). 14. Nguyễn Phước Bảo Khôi, Phùng Thị Vân Anh (2017). Một số ý kiến về việc dạy học VBTT. Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn 15. Nguyễn Thị Hạnh (2014). Xây dựng chuẩn năng lực đọc hiểu cho môn Ngữ văn của chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015 ở Việt Nam. (Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Tp.HCM, số 56). 16. Nguyễn Thị Hồng Nam, Dương Thị Hồng Hiếu (2016). Phương pháp dạy đọc văn bản. (NXB Đại học Cần Thơ). 17. Nguyễn Thị Ngọc Thúy (2014). Văn bản thông tin trong Chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới. (Kỉ yếu hội thảo khoa học “Dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới, căn bản toàn diện giáo dục”).
File đính kèm:
- skkn_lua_chon_ngu_lieu_doc_hieu_trong_de_thi_mon_ngu_van_nha.pdf