SKKN Dạy văn bản Xuất dương lưu biệt (Phan Bội Châu) kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh Khối 11
Cơ sở thực tiễn
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT đã nhiều
năm, tuy nhiên môi trường tôi dạy không phải là trường chuyên lớp chọn, trường
chúng tôi mới thành lập, học sinh có điểm đầu vào còn thấp, yếu Đối tượng học
sinh của tôi ít xuất sắc, giỏi mà chủ yếu là học sinh đại trà với lực học chủ yếu là
khá, trung bình, yếu Nên tôi nhận thấy, bên cạnh những học sinh chăm ngoan,
có ý thức học tập, có lối sống lành mạnh thì còn không ít những học sinh có biểu
hiện đi xuống về mặt tư tưởng đạo đức khiến cho nhà trường, giáo viên tâm huyết
đều trăn trở.
Biểu hiện cụ thể của những tư tưởng đạo đức chưa chuẩn mực ở học sinh:
+ Lối sống ích kỉ, vô cảm, giả dối, quá đề cao cái tôi cá nhân.
+ Thiếu sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau
+ Có thái độ, hành vi, lời nói vô lễ với thầy cô, cha mẹ, anh chị
+ Thiếu ý thức trách nhiệm đối với tập thể, với gia đình
Qua tìm hiểu tôi nhận thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, tuy
nhiên ở đây tôi chỉ đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau:Về phía xã hội: Tác động của cơ chế thị trường, ngoài những thành tựu rất
đáng tự hào về phát triển kinh tế, xã hội , văn hóa, giáo dục thì mặt trái của cơ chế
mới cũng ảnh hưởng đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và
những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội quan tâm.
Kết hợp sự phát triển của công nghệ với Internet sử dụng dễ dàng nhiều điều
thú vị hấp dẫn nhưng học sinh không sử dụng như một phương tiện học tập thông
minh mà dùng vào việc giải trí chiếm rất nhiều thời gian, dễ dẫn đến vô cảm, thờ
ơ .
Về phía gia đình: Do nuông chiều con thái quá, do một số phụ huynh nhận
thức lệch lạc không có tri thức về giáo dục con cái; sử dụng quyền uy bố mẹ một
cách cực đoan, tấm gương phản diện của bố mẹ, người thân; những hoàn cảnh éo
le hoặc bị đối xử vũ lực, thiếu sự quan tâm của gia đình
Về phía giáo viên: Đa số giáo viên tâm huyết, có trách nhiệm, quan tâm đến
học sinh nhưng vẫn còn một số hạn chế do:
+ Đã có nhiều đổi mới về phương pháp giảng dạy nhưng chưa thực sự phù
hợp với học sinh có trình độ nhận thức yếu, kém
+ Một số giáo viên chưa linh hoạt, còn tham nhiều kiến thức
+ Do sĩ số lớp đông nên rất khó để theo sát, kèm cặp từng học sinh trong giờ
học nên còn “bỏ sót” một số học sinh.
ày càng phát triển. Bởi vậy, thế hệ trẻ luôn có trách nhiệm to lớn đối với quê hương, đất nước. Đặc biệt, từ bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu càng giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về vấn đề này. Bài thơ Xuất dương lưu biệt đã thể hiện rõ khát vọng của một người trẻ muốn đi tìm đường cứu nước. Lời từ biệt của nhà chí sĩ cách mạng đã thể hiện rõ nét chí làm trai lớn lao và táo bạo của con người khi dám đối diện với cả trời đất, vũ trụ để tự khẳng định chính mình. Đồng thời, bài thơ còn thể hiện rõ ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc. Để rồi, tất cả những điều đó kết tinh lại thành khát vọng lên đường, tư thế lãng mạn của người anh hùng ra đi tìm đường cứu nước mới. Bài học về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với quê hương, đất nước ấy trong bài thơ dường như vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận ngày hôm nay. Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thanh niên cần phải có trách nhiệm học tập, cống hiến, nỗ lực hết mình và phát huy hết khả năng của bản thân để đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước. Đặc biệt, dưới sự soi sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, thanh niên cần nhận thức rõ nét và sâu sắc trách nhiệm, lí tưởng sống và hoài bão của bản thân. Tiếp nối truyền thống của các thể hệ cha anh, thanh niên luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định và trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, biết tránh xa những âm mưu, thủ đoạn đen tối của các thế lực thù địch. Đặc biệt, bản thân mỗi người cần phải phấn đấu, học tập tốt, mở rộng vốn hiểu biết và trình độ ngoại ngữ của bản thân để đưa dân tộc ta, đất nước ta từng bước sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh một bộ phận thanh niên có ý thức tốt, sẵn sàng cống hiến, hi sinh vì đất nước thì vẫn còn đó một số thanh niên luôn ỷ lại vào các thế hệ đi trước, không cố gắng học tập, rèn luyện, không có lí tưởng, hoài bão, thiếu đi mục đích sống. Chúng ta cần phê phán những thanh niên thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm này. Đồng thời, cần đề cao và tuyên dương những người luôn ý thức được trách nhiệm của bản thân, không ngừng cố gắng, nỗ lực để đạt được mục tiêu của đất nước, của dân tộc. Đặc biệt, là thanh niên đang ngồi trên ghế nhà trường, cần có ý thức, sự cố gắng, nỗ lực trong học tập và rèn luyện. Trước những khó khăn, thử thách không được bỏ cuộc mà phải nỗ lực để tìm cách vượt qua nó, đồng thời phải luôn kiên định với mục tiêu, lí tưởng của bản thân. Tóm lại, mỗi chúng ta, khi đang còn có thể thì hãy cống hiến hết sức mình vì sự nghiệp, tương lai của đất nước, dân tộc. Đó là trách nhiệm lớn lao và thiêng liêng của mỗi người. Đề 2: Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể Bài viết của em Lê Hoàng Anh – lớp 11A1 Xã hội loài người là một quần thể rộng lớn, trong đó mối cá nhân học tập, làm việc, sinh hoạt theo nhiều phương thức khác nhau, có bản sắc của riêng mình. Cá nhân và tập thể là hai khái niệm luôn song hành với nhau, vừa đối lập vừa hỗ trợ, bổ sung vho nhau. Tìm hiểu về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể giúp chúng ta rút ra được nhiều bài học có giá trị, ý nghĩa to lớn. Trước hết, ta nên hiểu cá nhân là gì? Tập thể là gì? Cá nhân là một cá thể riêng biệt, có những suy nghĩ, quan điểm và hành động riêng. Còn tập thể là một cộng đồng, là toàn bộ những người cùng sống với nhau, gắn bó với nhau thành một khối trong sinh hoạt, xã hội. Giữa cá nhân và tập thể tuy đối lập nhau nhưng chúng luôn hỗ trợ nhau cùng phát triển. Qua bài thơ Xuất dương lưu biệt, ta sẽ càng thấy rõ được cái tài, chí làm trai của cái tôi tác giả được thông qua đầu tác phẩm: Làm trai phải lạ ở trên đời Há để càn khôn tự chuyển dời. Chí làm trai của ông là phải làm những điều lạ, tức là những việc hiển hách, phi thường. Đó là một khát vọng lớn, lí tưởng sống vững vàng. Hai câu thơ trên đã bộc lộ một cách cụ thể cái tôi sâu sắc, tích cực. Cái tôi này khẳng định trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, điều đó đã làm con người ta thêm cảm phục về những con người sống ý thức được trách nhiệm của cá nhân với đất nước, với tập thể cộng đồng dân tộc. Trong thực tế, không một cá nhân nào nằm ngoài mối quan hệ tập thể và mỗi cá nhân không thể sống tách biệt, đặt cái tôi của mình lên cao nhất mà phải biết dung hòa với các cá nhân khác, đưa tập thể đi lên. Dân tộc ta từ xưa có câu “dân giàu nước mạnh”, một đất nước mà mỗi người dân đều giàu mạnh và ra sức cống hiến cho đất nước thì sẽ tạo nên sức mạnh, sự phát triển bền vững, lâu dài đối với cộng đồng dân tộc. Mỗi cá nhân sẽ góp phần cho tập thể ngày càng hoàn thiện hơn còn mỗi tập thể lại chính là môi trường để mỗi cá nhân rèn luyện, phát triển bản thân mình và là động lực để mối cá nhân có thể đạt được mục tiêu, thành tựu to lớn. Tóm lại, trong tập thể, các cá nhân phải biết đoàn kết, chung sức hỗ trợ lẫn nhau, có sự bao dung, hi sinh cho nhau. Trong cuộc sống hiện nay, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể vẫn còn nhiều bất cập, tình trạng chia bè kết cánh, chỉ biết nghĩ cho lợi ích của riêng mình vẫn còn diễn ra. Điều đó không chỉ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cả tập thể. Những cá nhân như thế đáng bị phê phán. Những người sống ích kỉ, hẹp hòi như vậy sẽ khó có thể đạt đến thành công, sớm muộn họ cũng sẽ bị cô lập và không có cơ hội để hoàn thiện, phát triển bản thân trong tập thể. Mỗi chúng ta cần phải cố gắng, nỗ lực hơn nữa để trau dồi, rèn luyện đạo đức, đạt được ước mơ của bản thân. Đồng thời, phải luôn biết đặt lợi ích cá nhân đi cũng lợi ích tập thể, phải biết hi sinh lợi ích cá nhân vì mục tiêu chung là thúc đẩy tập thể phát triển. Chúng ta sống trong tập thể song vẫn cần duy trì những màu sắc của cá nhân để làm phong phú thêm cho tập thể. Đồng thời, phải biết san sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, luôn sẵn sàng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái bởi đó chính là một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh của cả tập thể. Tóm lại, cá nhân và tập thể là mối quan hệ song hành, tương hỗ, không thể tách rời. Bởi vậy, nếu bỏ qua mối quan hệ này thì tập thể hay cá nhân dù xuất sắc đến đâu cũng khó có thể phát triển lâu dài và lớn mạnh được. Đối với bản thân em, phải biết vì lợi ích chung của cả lớp. Trong tập thể dủ nhỏ hay lớn cũng phải luôn thể hiện tinh thần đoàn kết , chúng tay, góp sức để hoàn thành mọi mục tiêu đề ra. Bài 2: Bài viết của em Lê Thị Thanh – Lớp 11A4 Từ xưa đến nay, trong lịch sử dân tộc, ai ai ai cũng phải ngỡ ngàng trước sức mạnh phi thường của một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam nhưng lại có thể đánh thắng biết bao quân xâm lược hùng mạnh. Một trong số những nhân tố làm nên sức mạnh đó chính là tinh thần đoàn kết, là sức mạnh của cả tập thể dân tôc. Đồng thời, từ đó, cũng cho chúng ta nhiều suy ngẫm về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Như chúng ta đã biết, cá nhân là từng cá thể riêng biệt, tồn tại biệt lập với nhau. Tập thể là một cộng đồng, bao gồm nhiều cá nhân cùng giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau để phát triển. Như vậy, giữa cá nhân và tập thể nếu đứng tách ra thì hoàn toàn đối lập nhau nhưng nếu xét về nghĩa tương trợ thì chúng lại hỗ trợ và làm phong phú lẫn nhau. Trên thực thế, không có một cá nhân nào có thể tồn tại biệt lập so với tập thể. Mỗi cá nhân có ý thức xây dựng tập thể vững mạnh và đoàn kết. Đó cũng chính là mục tiêu chung, lớn nhất khi chúng ta sống trong một tập thể, một cộng đồng. Ông cha ta từ xưa đã có câu “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Quả thật vậy, sức mạnh của cá nhân dù có lớn mạnh đến đâu thì cũng sẽ khó có thể làm được những điều lớn lao, phi thường nếu như thiếu vắng đi sự tương trợ, giúp đỡ của cả một tập thể. Giữa cá nhân và tập thể luôn có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho nhau để tạo ra sức mạnh. Vì vậy, những người sống trong một tập thể hay cộng đồng cần phải biết yêu thương, giúp đỡ người khác và biết san sẻ những khó khăn, vất vả trong cuộc sống. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận người sống trong cùng một tập thể nhưng lại có lối sống cá nhân, ích kỉ, hẹp hỏi, chỉ biết lo nghĩ đến bản thân mình mà quên đi tập thể. Đó là những mối nguy hại cho tập thể và cho cả cộng đồng. Những người sống theo kiểu cá nhân thì dù có đạt được mục đích, lợi ích của mình thì cũng sẽ đánh mất đi những mối quan hệ xung quanh mình. Như vậy, để tạo dựng được một tập thể vững mạnh thì đói hỏi mỗi cá nhân cần có tinh thần vì tập thể, biết hi sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích chung. Đồng thời, mỗi tập thể phải là môi trường để mỗi cá nhân phát triển và phát huy năng lực, sở trường của mình. IV. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 1. Mục đích thực nghiệm sư phạm Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại trường phổ thông nhằm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng phương pháp dạy học tác phẩm văn học kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức HS Khối 11 thông qua đó mà phát triển năng lực và phẩm chất cho HS ở trường THPT. 2. Nội dung thực nghiệm sư phạm Dùng một tác phẩm văn học cụ thể để dạy học sinh giúp HS hiểu sâu sắc kiến thức và thấy được mối quan hệ giữa kiến thức văn học với cuộc sống, với tư tưởng đạo đức và từ đó phát triển năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo; đồng thời giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm đối với tập thể, gia đình, bản thân cho HS THPT. 3. Đối tượng thực nghiệm Tôi chọn tiến hành thực nghiệm sư phạm lớp 11A1, 11A4 trường THPT nơi tôi công tác và tôi trực tiếp giảng dạy. Đặc điểm của lớp: - Lớp 11A1:+ Có sĩ số 40 HS gồm 22 nữ và 18 nam. + Kết quả khảo sát môn Văn đầu năm: Khá – giỏi: 21 em; Trung bình: 19 em. - Lớp 11A4: + Có sĩ số 39 HS gồm 18 nữ và 21 nam. + Kết quả khảo sát môn Văn đầu năm: Khá – giỏi 19 em; Trung bình 20 em. 4. Tiến hành thực nghiệm 4.1. Chuẩn bị cho TNSP - Xây dựng tiến trình dạy học theo hướng phát triển năng lực, chú trọng đến bộ câu hỏi định hướng và các tình huống thảo luận dẫn dắt vấn đề. - Xây dựng các biểu mẫu, phân công nhiệm vụ, phiếu thăm dò, tiêu chí đánh giá sản phẩm cũng như các năng lực, kĩ năng - Chuẩn bị bài kiểm tra. - Chuẩn bị cơ sở vật chất để các em báo cáo sản phẩm. 4.2. Phương pháp thực nghiệm Thực nghiệm được tiến hành theo các phương pháp sau: - Tiến hành TN theo các kế hoạch bài dạy đã xây dựng, áp dụng với lớp 11A1,11A4 trường THPT tôi đang công tác. - Tổ chức cho HS các tiết, buổi sinh hoạt ngoại khóa sau tiết học. Yêu cầu HS thực hiện các nhiệm vụ đã được giao ( Để kiểm tra việc nhận thức, sự tiến bộ về tư tưởng đạo đức mỗi HS sẽ làm 3 bài văn nghị luận xã hội về vấn đề rút ra từ tác phẩm văn học). Lập bảng thống kê kết quả phân loại học tập. Tổng kết, đánh giá chung cho quá trình thực hiện. 5. Kết quả thực nghiệm Kết quả các bài kiểm tra TT LỚP SĨ SỐ KẾT QUẢ Giỏi Khá Trung bình Yếu 1 11A1 40/40 10 20 10 0 2 11A4 39/39 9 19 11 0 Nhìn vào kết quả học tập của HS sau khi thực hiện đề tài, so sánh với kết quả phân loại đầu năm của lớp 11A1, 11A4 nhận thấy: Số học sinh đạt điểm trung bình giảm xuống, học sinh đạt điểm khá – giỏi tăng lên, chất lượng có tăng lên rõ rệt. Và các em không chỉ có điểm số tăng lên mà ý thức của bản thân trong mỗi hành động thường ngày cũng có sự thay đổi nhiều. Trong quá trình thực nghiệm, việc vận dụng các kiến thức để giải quyết các vấn đề nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao được HS tiếp thu rất sôi nổi, hứng thú chủ động nghiên cứu, tìm tòi tìm kiếm lĩnh hội kiến thức mới. Các kiến thức liên hệ thực tiễn đã kích thích được tính tích cực suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh, gắn việc "học đi đôi với hành". Khi tiến hành thực nghiệm, HS rất tích cực tham gia thảo luận giữa các nhóm, giữa các cá nhân để có kết quả chính xác nhất. HS không chỉ phát triển kĩ năng tự học, mà còn chủ động tìm hiểu nhiều nguồn tư liệu khác từ báo chí, internet, qua việc thực hiện nhiệm vụ học tập. Nhờ cùng nhau thảo luận, cùng nhau làm việc mà giúp HS phát triển được các NL như NL giao tiếp, giải quyết tình huống, ý thức với tập thể và ý thức với cuộc sống của bản thân. HS được trình bày báo cáo, trao đổi trực tiếp với nhau, tạo thuận lợi để phát triển năng lực giao tiếp, từ đó giúp HS cảm thấy tự tin hơn với bản thân trước tập thể và tạo niềm thích thú, yêu thích bộ môn, từ đó góp phần làm tăng độ bền kiến thức cho HS. PHẦN 3. PHẦN KẾT LUẬN I. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 1. Tính khoa học Nội dung của đề tài được trình bày khoa học, các luận điểm rõ ràng chính xác, cách lập luận thuyết phục. Hệ thống lí thuyết đúng đắn. 2. Tính mới Đề tài có những điểm mới sau: - Sau khi nghiên cứu về lý luận và tiến hành thực nghiệm sư phạm phương pháp dạy học tác phẩm văn học gắn với giáo dục tư tưởng đạo đức học sinh THPT, với một tiết học cụ thể là “Dạy văn bản Xuất dương lưu biệt kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức học sinh khối 11”: Phát triển khả năng tư duy, khả năng tìm tòi sáng tạo, vận dụng kiến thức đã học vào một vấn đề thực tiễn, từ những nội dung văn học hướng đến những phẩm chất, tư tưởng đạo đức cho học sinh. Đã tạo môi trường thuận lợi cho HS rèn luyện và phát triển toàn diện bởi ngoài tiết học HS còn được tham gia các hoạt động ngoại khóa, chủ đề liên quan đến bài học. Bên cạnh đó, qua bài học giúp HS rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng thuyết trình trước đám đông, kĩ năng tạo lập văn bản, hướng đến hoàn thiện các kĩ năng Đọc –Viết – Nói – Nghe. Các em nhận thức được những kiến thức Ngữ văn gần gũi với cuộc sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, giúp các em ngày càng hoàn thiện nhân cách. - Thiết kế, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ để kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức HS theo phương pháp đổi mới, hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã tạo cho học sinh nhu cầu nhận thức, ham muốn tìm hiểu, tự lực tham gia các hoạt động học tập, có điều kiện tranh luận, bảo vệ ý kiến của mình. Giáo viên với vai trò là người tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn, qua đó học sinh có thể tự khám phá và chiếm lĩnh nội dung bài học. 3. Tính thực tiễn Đề tài có thể vận dụng để dạy và học các tác phẩm văn học trong chương trình THPT. Mỗi tác phẩm văn học đều hướng đến giá trị Chân, Thiện, Mĩ, vì vậy dạy học Ngữ văn kết hợp giáo dục đạo đức tư tưởng cho học sinh là phù hợp, đúng đắn. Đồng thời nó góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Sau khi áp dụng kết quả nghiên cứu của đề tài, học sinh không chỉ có kiến thức văn học, hứng thú với bài học, tác động đến tư tưởng tình cảm, các em có ý thức hơn, thể hiện tinh thần đoàn kết, tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm trong mọi việc tốt hơn. Từ lời nói, cách ứng xử, hành động của các em, đặc biệt là những em còn chưa ngoan nay đã có sự chuyển biến tích cực. 4. Một số kinh nghiệm rút ra 4.1. Đối với giáo viên Việc dạy học Ngữ văn không chỉ giúp học sinh có những kiến thức đúng đắn về văn học, hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà còn phải tạo cho học sinh những kỹ năng mềm, phải giáo dục tư tưởng đạo đức , để mỗi học sinh ngày càng hoàn thiện nhân cách, sống có ý nghĩa, trở thành những con người có ích cho xã hội. 4.2. Đối với học sinh Thông qua việc nắm vững kiến thức văn bản văn học, những tư tưởng đạo đức mà văn bản mang lại, cần không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức qua những hành động, việc làm cụ thể trong đời sống hằng ngày. II. KHẢ NĂNG MỞ RỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA ĐỀ TÀI - Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền văn minh vật chất đưa tới nguy cơ làm tha hóa con người. Một số bộ phận quá coi trọng vật chất, sống hình thức, sống theo chiều rộng mà bỏ qua chiều sâu, không bồi đắp, tu dưỡng những giá trị tinh thần. Bên cạnh đó còn có sự phát triển của mạng xã hội, việc sản sinh ra những công nghệ cao khiến không ít người bị chìm đắm trong thế giới ảo mà đánh mất giá trị thựcNên việc tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh là rất cần thiết, phải làm ngay và làm thường xuyên, liên tục, phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu trong mỗi trường học. - Với đề tài này đang áp dụng cho một bài cụ thể văn bản “Xuất dương lưu biệt”, trong một tiết dạy cụ thể ( Tiết 73) theo PPCT ngữ văn 11 nhưng đề tài không chỉ dừng ở đây mà đề tài có thể mở rộng và phát triển. Thứ nhất, giáo viên có thể áp dụng dạy văn bản văn học kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh ở tất cả các tiết học, tùy vào nội dung của mỗi văn bản để xác định và lựa chọn nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh một cách phù hợp. Thứ hai, sau khi kết thúc tiết học, học sinh tiếp tục tìm hiểu các vấn đề liên quan đến bài học qua hệ thống bài tập, qua các đề văn cụ thể không chỉ về nghị luận văn học, mà những đề nghị luận xã hội được rút ra từ tác phẩm văn học. Những vấn đề này tiếp tục được triển khai trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa như sinh hoạt dưới cờ mỗi tuần, sinh hoạt chủ nhiệm, sinh hoạt câu lạc bộ văn học Trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa này các em sẽ được thể hiện mình nhiều hơn: được thuyết trình sản phẩm học tập, được nghe, nhận xét, góp ý các sản phẩm của bạn, được trao đổi thảo luận giúp các em khắc sâu kiến thức hơn, tự tin hơn, bồi dưỡng được tư tưởng đạo đức và các kĩ năng Đọc, Viết, Nói , Nghe. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT - Hiện nay, Sở GD và ĐT Nghệ An cho phép các trường tự chủ động xây dựng PPCT môn học bằng cách lồng ghép các tiết tự chọn vào phân phối chương trình. Qua việc nghiên cứu đề tài, thấy tầm quan trọng của việc vận dụng phương pháp, tôi đề xuất những vấn đề như sau: - Lồng ghép tiết tự chọn nội dung này vào phân phối chương trình ở tất cả các trường THPT. - Nghiên cứu xây dựng các chủ đề, các bài học với nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức cụ thể và có thể áp dụng một cách phù hợp ở mỗi môn học, mỗi trường. - Khuyến khích giáo viên tự mình xây dựng thêm nhiều bài học có sự kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức có chất lượng tốt để đạt mục tiêu giáo dục THPT hình thành phẩm chất và phát triển năng lực cho HS. - Mỗi người giáo viên cần thường xuyên tự học, tự nghiên cứu và đặc biệt là phải trang bị đầy đủ những kiến thức văn học và kiến thức xã hội không ngừng làm phong phú thêm kiến thức của mình, đồng thời là điều kiện để có những tiết dạy thành công. - Các tổ nhóm chuyên môn cần tích cực trao đổi, rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy của đồng nghiệp để nâng cao chất lượng giờ dạy môn Ngữ văn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong trường trung học phổ thông – Môn Ngữ văn. [2]. Bộ giáo dục và đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông (Ban hành kèm thông tư số 32/2018/TT-BGD ĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo) [3]. Bộ giáo dục và đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn [4]. Bộ GD & ĐT, Cục nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (2013), Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên về “Tăng cường năng lực dạy học của giáo viên” – Module THPT 17, 18, 19, NXB Giáo dục Việt Nam, NXB ĐHSP. [5]. Trịnh Văn Biều (2010), Các phương pháp dạy học tích cực, Trường ĐHSP TPHCM. [6]. Nguyễn Xuân Lạc (2017), Phát triển năng lực người học qua môn Ngữ văn, Báo giáo dục thời đại. [7]. Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam (2017), Lí luận văn học, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội. PHỤ LỤC Hình 1. Nhóm 1 thảo luận về - Quan niệm của cụ Phan về chí làm trai có gì mới mẻ, táo bạo so với tiền nhân? Hình 2: Nhóm 2 thực hiện nhiệm vụ tìm hiểu hai câu thực (Vai trò, trách nhiệm gánh vác giang sơn) Hình 3: Nhóm 3 thực hiện nhiệm vụ tìm hiểu hai câu luận ( Quan niệm của Phan Bội Châu về non sông, về sách vở thánh hiền) Hình 4: Các nhóm thảo luận thực hiện nhiệm vụ Hình 5: Các nhóm thảo luận thực hiện nhiệm vụ Hình 6: Đại diện nhóm lên trình bày kết quả thực hiện nhiệm vụ
File đính kèm:
- skkn_day_van_ban_xuat_duong_luu_biet_phan_boi_chau_ket_hop_g.pdf