Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu xung đột kịch trong đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" (Trích Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng)
1.1. Lịch sử văn học xét đến cùng là lịch sử hình thành và tiêu vong của
các thể loại. Chính vì thế, cấu tạo chương trình ngữ văn THPT nhất là phần văn
học đã coi trọng sự phát triển của loại thể. Tìm hiểu tác phẩm qua đặc trưng thể
loại là hướng khám phá có hiệu quả để nhận chân những giá trị tư tưởng và nghệ
thuật của một tác phẩm văn học.
1.2. Nếu tình huống là hạt nhân của truyện ngắn thì xung đột chính là linh
hồn, là xương sống của một vở kịch. Nắm được xung đột kịch tức là chúng ta đã
có được chiếc chìa khóa để mở cánh cửa bước vào thế giới nghệ thuật của một
vở kịch.
1.3. Vũ Như Tô là vở bi kịch hiếm hoi của văn học Việt Nam hiện đại.
Thể loại văn học và sân khấu này có quá nhiều nét ngoại biệt, không thấy ở các
thể loại khác. Tác phẩm được chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường với đoạn
trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Tuy nhiên việc khám phá chiều sâu nội dung tư
tưởng qua xung đột kịch chưa thật sự được chú ý. Bởi vậy, đề tài của chúng tôi
hướng đến một cách tiếp cận còn nhiều khoảng trống, đó là tìm hiểu đoạn trích
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài qua xung đột bi kịch. Việc tìm hiểu xung đột kịch
trong đoạn trích còn có ý nghĩa thực tiễn: Giúp ta tìm ra phương pháp tiếp cận
thích hợp với những văn bản kịch còn lại trong chương trình trung học phổ
thông. Đó chính là lý do chọn đề tài của chúng tôi.
lực, sinh mệnh của hàng triệu nô lệ. Ở Trung quốc cổ đại để xây nên công trình Vạn lí trường thành, Tần Thủy Hoàng cũng đã hi sinh tính mệnh và của cải của hàng triệu người dân Trung Hoa. Châu Âu thời trung cổ đề cao tôn giáo mà rẻ rúng khoa học, đề cao đức tin mà coi rẻ trí tuệ, phương Đông thời trung đại đề cao bổn phận mà coi rẻ khát vọng cá nhân... Như vậy, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt ra trước mắt chúng ta một vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn không chỉ của một thời mà của nhiều thời. 10 Đây cũng là mâu thuẫn có tính chất nội tại. Nó nằm ngay trong bản thân nhân vật. Nghĩa là bất kể thế nào thì bi kịch vẫn có thể xẩy ra. Giả dụ Vũ Như Tô không sống ở thời của hôn quân Lê Tương Dực mà sống ở thời của đấng minh quân Lê Thánh Tông bi kịch có xẩy ra không? Bi kịch vẫn xẩy ra nhưng theo một cách khác lặng lẽ, âm thầm, sử sách không ghi lại. Là một minh quân vua Lê Thánh Tông thì sẽ không bao giờ ra lệnh xây Cửu Trùng Ðài. Là ông vua sùng đạo Nho, tâm niệm lời dạy của thánh hiền, nhớ gương tầy liếp của Kiệt - Trụ, Hồng Ðức không ăn chơi xa xỉ, không nghĩ đến chuyện xây cung điện nguy nga chín tầng trăm nóc làm hao tổn ngân khố, thiệt hại tài sản và tính mạng của dân, để dân oán giận và có thể nổi dậy lật đổ ông. Ðộc tôn Khổng - Nho và bài Phật, bài Lão, Lê Thánh Tông cũng sẽ không cho xây đền chùa miếu mạo với quy mô to lớn như thời Lý - Trần; thành thử nếu họ Vũ sống dưới triều Lê Thánh Tông thì cũng sẽ không có việc làm. Vũ Như Tô sẽ tất yếu phải chôn vùi tài năng cùng với những cao vọng sáng tạo của mình để hoặc vui vầy với nhà tranh vách đất, với củ khoai củ sắn, hoặc nếu không chịu đựng được cuộc sống thực vật ấy thì tìm cách tự kết liễu cuộc đời mình, như bao nhiêu người tài bất đắc chí vẫn làm ở mọi châu lục và mọi thời đại. Mâu thuẫn này cũng không thể giải quyết bởi mọi cách giải quyết mâu thuẫn đều dẫn đến sự diệt vong của những giá trị quan trọng. Kết cục của vở kịch mang tính bi kịch bởi vì đã băng hoại những giá trị lớn: Cả Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài đều đã bị diệt vong, cả cái Tài và cái Đẹp đã bị tiêu hủy. Đây không phải là cái Tài cái Đẹp bình thường mà là cái Tài và cái Đẹp siêu đẳng trác tuyệt. Người thợ có tài trong lịch sử đã được Nguyễn Huy Tưởng cường điệu phóng đại để trở thành "thiên tài ngàn năm chưa dễ có một". Nghĩa là nếu Vũ Như Tô chết thì phải một nghìn năm nữa nhân dân mới có thể sản sinh ra một Vũ Như Tô mới, nhiều công trình kỳ vĩ có thể được xây cất, nhưng không phải Cửu Trùng Ðài tuyệt diễm mà chỉ Vũ Như Tô mới có thể làm nên. Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài là những giá trị hiếm hoi siêu việt, là một giá trị quan trọng, bởi những thiên tài ở cấp cao giá trị của nó bao giờ cũng đồng đẳng với 11 dân tộc hoặc cao hơn dân tộc. Nhưng ta thử giả định một kết cục khác: Cửu Trùng Ðài hoàn thành, nhưng lúc ấy sẽ không còn người nào, trừ Vũ Như Tô và Ðan Thiềm, để thưởng ngoạn nó, bởi lẽ những Lê Tương Dực với lũ cung nữ với những Nguyễn Vũ đâu phải là những con người chân chính. Nhân dân sẽ bị diệt vong và dân tộc có nguy cơ tuyệt diệt. Khi một dân tộc huy động đến vắt kiệt những tiềm lực của mình để sáng tạo nên những cái Đẹp hoành tráng, kì vĩ, trác tuyệt, siêu đẳng thì dân tộc đó có nguy cơ đứng bên bờ vực của sự suy vong. Những nền văn minh đã tử vong như Ăng-co hay đất nước Chiêm Thành đã minh chứng cho điều đó. Mâu thuẫn này cũng không thể giải quyết theo cách hòa giải. Bởi cơ hội hòa giải chỉ có thể xảy ra khi nhân dân và Vũ Như Tô thấu hiểu cho nhau và khi đó Cửu Trùng Đài cũng sẽ không được sinh ra. Nghĩa là, bất kể giải quyết theo cách nào thì cũng sẽ làm diệt vong những giá trị quan trọng. 3.2. Diễn biến của xung đột Mâu thuẫn bi kịch phát triển mỗi lúc một căng thẳng và dẫn đến xung đột ở hồi V. Diễn biến của xung đột xoay quanh số phận của Vũ Như Tô và sinh mệnh của Cửu Trùng Đài. Là người nghệ sĩ mơ mộng và lãng mạn Vũ Như Tô đã đắm chìm trong giấc mơ của đời mình mà mù lòa trước thực tế. Bởi vậy, khi Trịnh Duy Sản cấu kết với thợ thuyền nổi lên giết chết Lê Tương Dực, truy sát Vũ Như Tô, ông vẫn không hề tỉnh ngộ. Trong khi Đan Thiềm hốt hoảng chạy đến báo tin "loạn đến nơi rồi" và khuyên Vũ Như Tô chạy trốn, bởi hơn ai hết, bằng cái nhìn tỉnh táo Đan Thiềm ý thức được rằng nhân dân không thừa nhận lí tưởng của Vũ Như Tô: "Ai cũng cho ông là thủ phạm, vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán hận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông. Cửu Trùng Đài họ có cần đâu, họ dấy nghĩa cốt để giết ông, phá Cửu Trùng Đài". Thế nhưng Vũ Như Tô vẫn ngơ ngác không hiểu. Ông không nghĩ việc mình xây Cửu Trùng Đài lại bị nhân dân xem là tội ác. Ông vẫn 12 nguyên vẹn một niềm tin ngây thơ và lầm lạc: "Tôi không có tội! Việc tôi làm là chính đại quang minh". Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài là mộng lớn, là toàn bộ lẽ sống của đời ông và ông quyết tâm bảo vệ nó bằng mọi giá: "Tôi sống với Cửu Trùng Đài và chết cũng với Cửu Trùng Đài. Cửu Trùng Đài ở đây thì tôi chạy đi đâu". Vũ Như Tô đã đồng nhất sinh mạng của đời mình với sinh mạng của nghệ thuật, coi Cửu Trùng Đài là giá trị duy nhất có ý nghĩa trong cuộc đời và sẵn sàng hi sinh tất cả cho nó. Ngược lại nhân dân coi Cửu Trùng Đài là tội ác, Vũ Như Tô là tội đồ, là nguyên nhân của mọi nỗi thống khổ và họ quyết tâm hủy diệt Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài bằng mọi giá: "Cửu Trùng Đài họ có cần đâu. họ dấy nghĩa cốt để giết ông phá Cửu Trùng Đài". Khi tình hình trở nên căng thẳng hơn, giữa tiếng quân reo và lửa cháy, tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, tên nội giám thông báo Vua bị giết, Hoàng hậu nhảy vào lửa, Cửu Trùng Đài kẻ phá người đốt, nhân dân hò reo truy sát Vũ Như Tô: "Còn thằng Vũ Như Tô đem phân thây trăm mảnh", Vũ Như Tô vẫn đấu lí với cuộc đời với số phận: "Vô lí", "Họ tìm tôi nhưng có lí gì họ giết tôi. Tôi có gây oán thù gì với ai". Vũ Như Tô từng tranh tinh xảo với hóa công, giờ lại tranh phải trái với số phận. Cơn biến loạn với những biến cố dồn dập ập đến nhưng Vũ Như Tô nhìn mà không thấy, nghe mà không biết, toàn bộ tâm trí bị cuốn hút bởi cảnh quan tráng lệ của Cửu Trùng Ðài. "Khi con người ở trong nghệ thuật, nó vắng mặt ở trong cuộc đời, và ngược lại" - đó là trạng thái bi kịch muôn thuở của nhân sinh, được phản ánh trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng. Khi quân phản loạn đã ập vào nội cung, cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm đều bị bắt, nhân dân nhân danh công lí kết tội ông: "Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày hơn oán quỷ". Thậm chí trong mắt của nhân dân, Vũ Như Tô chỉ là "quân điên rồ", "quân ngu muội", là "giống vật không biết nhục". Ngược lại, Vũ Như Tô vẫn cho rằng: "Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công... ta không có tội và chủ tướng các 13 người sẽ cởi trói cho ta để ta xây nốt Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thủa". Rõ ràng, Vũ Như Tô là người nghệ sĩ mơ mộng và lãng mạn. Những biến cố của cuộc đời thực không mảy may tác động vào giấc mơ của ông, toàn bộ tâm trí của ông vẫn đắm chìm trong giấc mộng Cửu Trùng Đài kì vĩ và trác tuyệt. Theo đuổi đến cùng cái đẹp siêu đẳng người nghệ sĩ đã không đếm xỉa đến mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của nhân dân. Còn nhân dân, nhân danh sự sống nhất thời không chấp nhận sự áp đặt giá trị với những đòi hỏi hy sinh từ phía nghệ sĩ. Kết quả là họ đã nổi dậy tiêu diệt Vũ Như Tô và cả công trình kì quan của ông. Kết thúc vở kịch, tận mắt chứng kiến kinh thành phát hỏa, Cửu Trùng Đài bị đốt cháy, ánh lửa sáng rực, cả tàn than bụi khói bay vào, Vũ Như Tô mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng: "Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Trời phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!". Rơi xuống từ một Cửu Trùng Đài vời vợi độ cao của mơ mộng và ảo vọng, nỗi đau vỡ mộng của Vũ Như Tô biến thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khắc khoải thể hiện tâm trạng bàng hoàng, bi phẫn lẫn nỗi đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng. Ánh lửa từ tro bụi Cửu Trùng Đài đã thiêu rụi giấc mơ của Vũ Như Tô. Cùng một lúc Vũ Như Tô đón nhận hàng loạt sự đổ vỡ ập xuống: giấc mơ tan vỡ, tri kỉ thành cát bụi, cái đẹp bị tiêu hủy. Là người nghệ sĩ độc tôn cái đẹp, coi cái đẹp là lẽ sống cuộc đời mình, bởi thế khi Cửu Trùng Đài đã tan thành tro bụi thì sống hay chết với Vũ Như Tô nào có ý nghĩa gì? Cho nên ông bình thản đón nhận cái chết: “Thôi! Thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường". Người nghệ sĩ Vũ Như Tô đã chết trước khi đầu rơi ở pháp trường. Ngược lại với nỗi đau đớn tuyệt vọng của Vũ Như Tô, nhân dân lại hả hê reo mừng khi Cửu Trùng Đài bị đốt cháy: "Cửu Trùng Đài đã cháy", "Thực đáng ăn mừng". Ðiệp khúc nguyền rủa Cửu Trùng Ðài vang lên song song với điệp khúc ngưỡng vọng Cửu Trùng Ðài tạo nên một bản nhạc phức điệu nhưng đầy hấp dẫn trong vở kịch Vũ Như Tô. Bản nhạc lạ tai được kết cấu chủ yếu bằng phối hợp đối âm, trong thế cân bằng uyển chuyển và căng thẳng, hai bè hợp 14 xướng thuận nghịch, không để bè nào lấn át bè nào. Nhân dân reo mừng đốt phá Cửu Trùng Đài và truy sát người nghệ sĩ tài năng. Còn Vũ Như Tô chỉ đau cho mộng lớn của mình không thành hiện thực chứ không phải đau vì nhận thấy sai lầm của mình. Ông thực sự là một nhân vật bi kịch điển hình với những khát vọng lớn lao, những lầm lạc và cả "sự cứng đầu" cho đến khi chết. Vũ Như Tô là người nghệ sĩ mơ mộng, lãng mạn có lý tưởng nghệ thuật cao cả. Ông đã làm đúng thiên chức của người nghệ sĩ là sáng tạo ra cái Đẹp nhưng ông đã sai lầm khi tuyệt đối hóa cái Đẹp mà bỏ rơi cái Thiện, đặt cái Đẹp cao hơn mọi giá trị khác ở trên đời. Ðối với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Ðài quý hơn tính mạng của chàng, điều đó thật đáng yêu và đáng phục. Nhưng Cửu Trùng Ðài còn quý hơn hạnh phúc và sự sống của hàng trăm, hàng ngàn con người khác thì lại đáng sợ rồi. Theo đuổi cái Đẹp thuần túy, biến nó không những thành giá trị tự thân, mà còn thành thần tượng độc tôn, người nghệ sĩ thiên tài đã phạm tội trước nhân dân, trước nhân loại, trước sự sống. Cái chết của Vũ Như Tô, xét từ một góc độ nào đó là cái chết chuộc tội, mặc dù nhân vật kịch không ý thức được điều đó. Nhân dân ngược lại cũng cực đoan không kém Vũ Như Tô. Quần chúng nhân dân cụ thể, chứ không trừu tượng ấy, trong lịch sử và trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng đã chọn không suy nghĩ đắn đo chỉ một cái Thiện như họ hiểu nó, và chà đạp, hạ nhục không thương tiếc cái Ðẹp. Nhân vật đối kháng tập thể, cũng hệt như nhân vật nguyên khởi, đã phạm tội lỗi bi kịch. Trong bi kịch thực thụ không có người chiến thắng. Tính cao cả đặc biệt của bi kịch là ở chỗ ấy. 3.3. Cách giải quyết xung đột Các mâu thuẫn xung đột thường được giải quyết theo hai cách, hoặc triệt tiêu một phía để phía kia toàn thắng hoặc hòa giải. Mâu thuẫn thứ nhất, mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa trụy lạc của hôn quân bạo chúa với cuộc sống điêu linh khốn khổ của nhân dân, đã được giải quyết một cách thỏa đáng theo quan 15 điểm của nhân dân. Nhân dân nổi dậy tiêu diệt bạo chúa là xong. Nhưng mâu thuẫn thứ hai, để tránh khỏi bi kịch chỉ có thể giải quyết theo cách hòa giải. Tuy nhiên cơ hội duy nhất để hòa giải là Vũ Như Tô phải tạm thời trốn đi nhưng Vũ Như Tô mù quáng và cố chấp nên cơ hội này đã bị bỏ qua. Cho đến phút bị chém đầu, nhân vật anh hùng này vẫn đinh ninh: toàn bộ chân lý và lẽ phải thuộc về một mình chàng với Ðan Thiềm, toàn bộ tội tầy trời thuộc về "đảng ác" đã đốt phá Cửu Trùng Ðài. Mặt khác, dân chúng, binh sĩ nổi loạn cũng chỉ biết hả hê là đã loại trừ được nguyên nhân trực tiếp của những tai họa của họ. Cái Đẹp và cái Thiện đã không thể điều hòa và chung sống. Kết thúc vở kịch, Vũ Như Tô không hiểu gì và cũng không quan tâm đến lợi ích của quần chúng nhân dân. Và ngược lại, nhân dân trước sau cũng không hiểu gì về công việc sáng tạo của người nghệ sĩ. Họ hủy diệt không thương tiếc cái Tài và cái Đẹp. Phá Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Đó là những câu hỏi đầy day dứt mà chính tác giả cũng không thể giải quyết một cách rạch ròi dứt khoát. Nguyễn Huy Tưởng đã trực tiếp bày tỏ những băn khoăn của mình qua lời đề từ: "Cửu Trùng Đài không thành nên mừng hay nên tiếc... Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải. Ta chẳng biết cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Bi kịch, thể loại lớn của văn học và sân khấu, bao giờ cũng đặt độc giả và khán giả trước những câu hỏi rất phức tạp, hóc búa và nhức nhối của cuộc sống. Những câu hỏi ấy không chờ đợi những giải đáp vội vã, dễ dãi, đơn giản. Đây là mâu thuẫn có tính bi kịch khó có thể giải quyết một cách dứt khoát, ổn thỏa, trọn vẹn vì nó mang tính muôn thủa và tầm nhân loại. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết ổn thỏa khi đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao để nhân dân có thể chia sẻ với khát vọng của người nghệ sĩ. 3.4. Ý nghĩa của xung đột 3.4.1. Qua xung đột kịch, Nguyễn Huy Tưởng muốn trình xuất một triết lí: Các giá trị trong đời sống muốn tồn tại thì không được đối nghịch nhau 16 mà phải nâng đỡ nhau, bổ sung cho nhau. Mọi say mê của con người, nhất là những say mê chính đáng, cao thượng, giàu tính nhân văn, càng nồng cháy bao nhiêu thì càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rơi vào tội lỗi bi kịch bấy nhiêu. Lỗi lầm của Vũ Như Tô trong kịch Nguyễn Huy Tưởng là như thế. Chàng rất cao thượng trong khát vọng và ý chí sáng tạo của mình, nhưng chàng đã độc tôn cái Ðẹp nghệ thuật, đặt nó lên trên mọi giá trị cơ bản khác, tuân thủ chỉ một mệnh lệnh của cái Ðẹp và dửng dưng với mệnh lệnh của cái Thiện. Ðây là cốt lõi của tội lỗi bi kịch ở nhân vật anh hùng này. Chúng ta, những con người, luôn luôn lầm lạc trong hành động lẫn tư duy. Bị câu thúc bởi thực tiễn xã hội, chúng ta thường đề cao cái Chân, cái Thiện, cái Ðẹp như những giá trị cao nhất của nhân sinh, rất dễ xem chúng như những giá trị độc lập, có thể tồn tại riêng biệt, cái này không có cái kia vẫn được. Từ đấy mà ta lại càng dễ hy sinh, dễ thí giá trị này cho giá trị kia. Trong khi ấy trong cuộc sống lý tưởng, tức là cuộc sống duy nhất xứng đáng với con người, mọi giá trị phải tồn tại viên mãn, không lấn át mà nâng đỡ, bổ sung hài hòa cho nhau. Bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về mối họa lớn của sự tách rời và đối nghịch hóa các giá trị. Nó chứng minh đầy thuyết phục rằng cái Ðẹp tự sát, khi nó nhảy múa trên thân thể quằn quại của cái Thiện, nhưng giết cái Ðẹp vì cái Thiện cũng là giết luôn cả cái Thiện. Cái siêu đẳng và cái sơ đẳng phải tương hỗ, nuôi dưỡng lẫn nhau. Không có cái siêu đẳng, cái sơ đẳng càng quảng bá càng trở nên thô kệch. Nhưng cắt đứt quan hệ với cái sơ đẳng ("cái tự nhiên" hay là "đất" của văn hóa), cái siêu đẳng tự làm cho mình mất đi nhựa sống. Những giá trị cấp cao muốn tự bảo tồn và tỏa sáng không được quay lưng lại những giá trị cấp thấp, như họ Vũ trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng làm, nhưng phải biết liên thông và liên kết với chúng, mà vẫn không đánh mất bản thân. Ðó là nhiệm vụ rất khó, nhưng là tương lai của nền văn minh con người. Tuy nhận ra tính tất yếu và hợp lí của bi kịch Cửu Trùng Đài nhưng chúng ta không khỏi đau xót: Chả nhẽ trên đời con người chỉ cần những cái thiết thực và hữu ích hay sao? Chả nhẽ những dự án, công trình nghệ thuật lớn lao chỉ 17 là món hàng xa xỉ? Nếu thế thì phải chăng khát vọng hướng về cái đẹp là một lỗi lầm lớn của con người? Thật tự nhiên khi ta đau xót đặt ra những câu hỏi đó là ta đã đồng cảm cùng với tác giả: Vũ Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Câu hỏi dùng dằng ở trạng thái lưỡng phân đó là niềm trăn trở khôn nguôi của chúng ta trong mọi thời đại. Nó cho ta cái nhìn đúng đắn về quyền và khả năng chung sống của mọi giá trị tồn tại ở trên đời. 3.4.2. Qua xung đột kịch, Nguyễn Huy tưởng muốn đặt ra những vấn đề sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ sĩ và nhân dân cái đẹp và cái thiện. Cái Đẹp và cái Thiện phải gắn bó với nhau. Cái Đẹp chỉ thực sự tỏa sáng khi song hành cùng cái Thiện. Cửu Trùng Ðài, đồ án mà Vũ Như Tô áp đặt cho vua Lê Tương Dực, không cho sửa đổi một tí gì, theo ý tưởng của người thiết kế, là tác phẩm của cái Ðẹp thuần túy, cái Ðẹp "vô ích", nó muốn đứng trên mọi lợi ích thiết thực, lợi ích thấy được của cả nhân dân lẫn dân tộc nên cuối cùng nó đã bị tiêu hủy. Xung đột kịch đã nhấn mạnh về tính quá ư không thiết yếu, tính xa xỉ nguy hại cho quốc gia, dân tộc của những công trình như Cửu Trùng Ðài. Thế nhưng vì sao khi dân chúng và binh sĩ nổi dậy đốt Cửu Trùng Ðài, giết Vũ Như Tô, chúng ta lại đau xót đến thế? Hay là bởi vì không có cái đẹp vô ích, cái đẹp xa xỉ thì quốc gia, dân tộc, nhân dân, con người cũng không sống được? Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình lớn lao nhưng mặt khác người nghệ sĩ phải giải quyết được đúng đắn mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, gắn yêu cầu của nghệ thuật với đòi hỏi của muôn dân, không thể nhân danh cái cái đẹp vĩnh cửu mà hy sinh không thương tiếc quyền lợi của quần chúng nhân dân. Ngược lại, nhân dân cũng phải tự nâng mình lên để có chung khát vọng, thấu hiểu và chia sẻ với khát vọng của người nghệ sĩ, không thể nhân danh những giá trị đời sống bình thường mà rẻ rúng phá hủy Cửu Trùng Đài - cái đẹp siêu đẳng trác tuyệt và vĩnh cửu. 18 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Tìm hiểu xung đột kịch trong một văn bản kịch là một thao tác khá quan trọng để khám phá nội dung tư tưởng và những thông điệp nghệ thuật mà nhà văn kí thác. Vì vậy trong quá trình đọc hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, giáo viên và học sinh nên đi chú trọng tìm hiểu về xung đột kịch bởi qua xung đột kịch ta thấy được tầm tư tưởng và tài năng của nhà văn. Trong đề tài này, chúng tôi đã lần lượt phân tích xung đột bi kịch trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trên các phương diện: diện mạo của xung đột, diễn biến của xung đột, cách giải quyết xung đột và ý nghĩa của xung đột. Trong quá trình phân tích, chúng tôi đã có sự đối chiếu so sánh với các loại hình sân khấu khác cũng như đặt nó trong môi trường văn hóa - xã hội để thấy được những đóng góp lớn lao và tầm vóc tư tưởng của Nguyễn Huy Tưởng. Đề tài cũng đã được chúng tôi kiểm nghiệm qua thực tiễn giảng dạy. Kết quả cho thấy, các em học sinh rất hứng thú khi nhận ra những chân lí đời sống được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng gửi gắm qua các hình tượng nghệ thuật. Đoạn trích Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài là một đoạn trích hay và khó trong chương trình THPT, chúng tôi hi vọng rằng, đề tài này sẽ cung cấp cho các thầy cô giáo và các em học sinh một hướng khám phá để bước vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Sáng tác văn học thường mang tính chủ quan còn tìm hiểu tác phẩm tuy cần đến tính khách quan nhưng không thể và không nên thiếu phần chủ quan của chủ thể tiếp nhận. Đến với mỗi tác phẩm ta có một tâm thế, một con đường không lặp lại. Hướng tiếp cận văn học nói chung và tác phẩm kịch nói riêng bao giờ cũng là một hướng tiếp cận mở chờ đợi những tấm lòng tri âm. Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ chúng tôi rút ra trong quá trình giảng dạy của mình. Nó mang tính chủ quan và chắc chắn không tránh khỏi 19 những hạn chế, hi vọng được sự góp ý của các thầy các cô và bạn bè đồng nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Bá Hán (chủ biện), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000. 2. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000. 3. Phương Lựu, Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 1997. 4. Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô, NXB Văn học, 2007. 5. Nhiều tác giả, Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, 2008. 6. Nhiều tác giả, Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1, sách giáo viên, NXB Giáo dục, 2008.
File đính kèm:
- CHUYÊN - TRẦN THỊ LAM - VĂN.pdf