Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế và sử dụng bài tập thực tiễn để phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học phần hóa hữu cơ - Hóa học 11

Cơ sở lý luận về bài tập thực tiễn

Dạy học Hóa học gắn liền với thực tiễn là mong muốn của rất nhiều GV Hóa học. Bởi Hóa học là môn khoa học thực nghiệm, gắn liền với cuộc sống con người. Nếu HS thấy được sự gần gũi giữa kiến thức bộ môn với thực tế các em sẽ yêu thích môn Hóa học hơn, hứng thú tìm hiểu khoa học, có thêm kĩ năng sống, ý thức bảo vệ môi trường tốt hơn và có NL vận dụng kiến thức tốt hơn. Theo tôi, việc đưa các kiến thức Hóa học gắn liền với thực tiễn trong quá trình dạy học đem lại nhiều lợi ích:

- Học sinh tiếp nhận kiến thức đó một cách tự nhiên, nhớ kiến thức được lâu hơn, hiểu được tầm quan trọng của kiến thức trong thực tiễn, từ đó tăng hứng thú học tập và tìm hiểu kiến thức.

- Kích thích học sinh tìm hiểu, giải thích các hiện tượng thực tiễn đời sống, đặt các giả thuyết và nghiên cứu.

- Có kiến thức thực tiễn sẽ thúc đẩy việc gắn kiến thức lý thuyết và thực hành trong nhà trường với thực tiễn đời sống, đẩy mạnh thực hiện dạy học theo phương châm “ học đi đôi với hành”.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên việc gắn bài học với các nội dung có liên quan tới thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Nhiều bài tập Hóa học còn rất xa vời thực tiễn cuộc sống và sản xuất, quá chú trọng đến các tính toán phức tạp. Để phần nào đáp ứng được nhu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn Hóa học phổ thông theo hướng gắn với thực tiễn nên trong đề tài tôi tuyển chọn và xây dựng thêm một số kiến thức lý thuyết và bài tập Hóa học dạng này, đồng thời đưa chúng vào trong dạy học với phương pháp phù hợp nhằm góp phần nâng cao hứng thú học tập cho HS THPT.

 

doc26 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 01/03/2022 | Lượt xem: 1748 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế và sử dụng bài tập thực tiễn để phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học phần hóa hữu cơ - Hóa học 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ử dụng trong các bài ôn tập, luyện tập
Khi dạy bài ôn tập ancol- axit cacboxylic có thể đặt câu hỏi;
Vì sao khi lên men rượu thì cần ủ kín còn lên men giấm lại để thoáng?
Phân tích:
Bước 1: Đặt vấn đề: Vì sao khi lên men rượu thì cần ủ kín còn lên men giấm lại để thoáng?
Bước 2: Tạo tình huống có vấn đề: Men rượu hoạt động như thế nào ? 
 Men giấm hoạt động như thế nào ? 
Bước 3: GQVĐ: Men rượu hoạt động không cần oxi không khí, men giấm cần oxi không khí để oxi hoá rượu thành giấm.
Bước 4: Kết luận vấn đề: Men rượu hoạt động không cần oxi không khí, nó chuyển hoá đường thành rượu và khí cacbonic.
 men rựơu
C6H12O6 → 2C2H5OH + 2CO2
Men giấm cần oxi không khí để oxi hoá rượu thành giấm.
 men giấm
C2H5OH + O 2 → CH 3COOH + H 2 O
2.2.4.4. Sử dụng trong các bài kiểm tra 
ĐỀ KIỂM TRA HÓA HỌC 11 - LẦN 2
Thời gian: 15 phút
Câu 1. Vì sao về mùa hè, trên mặt hồ ao thường nổi lên nhiều bóng khí? Có phải là do cá đớp không khí không?
Câu 2. Thành phần chính của một loại nến là hiđrocacbon có công thức phân tử C25H52. Cần bao nhiêu lít không khí (ở điều kiện tiêu chuẩn) để đốt cháy hoàn toàn một cây nến nặng 70,4 gam? Biết oxi chiếm 20% thể tích không khí.
Đáp án:
Câu 1 (4 điểm)
Bọt khí thoát ra có thành phần chính là metan. 	 	 (1 điểm)
(Do các vi khuẩn có mặt trong nước đã phân huỷ các hợp chất mùn có ở đáy hồ ao). (1 điểm)
Về mùa hè, những lúc trời nắng nóng nhiệt độ của hồ ao cao hơn bình thường vì vậy độ tan của các khí trong nước hồ ao sẽ giảm xuống và thấp hơn nồng độ của chúng trong nước, một số khí thoát ra (ngoài CH4 còn có oxi, nitơ,) Khí metan là chất khí không màu, không mùi và hầu như không tan trong nước, do đó thoát ra ngoài tạo nên các bóng khí trên mặt ao hồ (2 điểm)
Câu 2 (6 điểm)
Phương trình Hóa học của phản ứng cháy
C25H52 + 38O2 → 25CO2 + 26H2O
 (2 điểm)
nnến = 70,4/352 = 0,2 (mol)
 (1 điểm)
noxi = 7,6 (mol)
Voxi = 7,6x 22,4 = 170,24 (l)
 (1 điểm)
Vkk = Voxi x 100/20 = 851,2 (l)
 (2 điểm)
2.2.4.5. Một số BTTT trong chương trình hóa hữu cơ lớp 11
Bài 1. Etilen được dùng để kích thích trái cây mau chín. Nó cũng là một trong các sản phẩm sinh ra khi trái cây chín. Điều gì xảy ra khi để những trái cây chín bên cạnh trái cây xanh?( Bài aken)
Phân tích: Khi để những trái cây chín cạnh những trái cây xanh thì C2H4 sinh ra từ trái cây chín sẽ kích thích những trái cây xanh chín nhanh hơn.
Bài 2. “Ga” (gas) chứa trong các bình thép để đun nấu trong gia đình và “ga” dẫn từ các mỏ khí thiên nhiên vừa dùng trong bếp núc, vừa dùng làm nhiên liệu công nghiệp khác nhau như thế nào? Bật lửa “ga” dùng loại “ga” nào? ( Bài: Nguồn hiđrôcacbon thiên nhiên)
Phân tích: “Ga” dùng để đun nấu và nạp bật lửa là hỗn hợp butan và một phần propan được nén thành chất lỏng trong bình thép.
“Ga” dùng làm nhiên liệu trong công nghiệp (xăng, dầu hoả) là hỗn hợp các ankan lỏng.
Bài 3. Ở các cây xăng ta thường nhìn thấy ghi A83, A90, A92. Các con số 83, 90, 92 có ý nghĩa gì vậy? Tại sao ở các cây xăng người ta cấm sử dụng lửa và điện thoại di động?( Bài: Nguồn hiđrôcacbon thiên nhiên)
Phân tích: Các con số ghi đấy chính là chỉ số octan của các loại xăng bán. Xăng có thành phần chính là các ankan lỏng, do ankan lỏng dễ bay hơi nên ở các điểm bán xăng luôn có hơi xăng, khi sử dụng điện thoại di động thì khi điện thoại reo sẽ phát ra tia lửa điện có thể kích thích hơi xăng trong không khí cháy, cũng như vậy đối với việc sử dụng bật lửa. Vì vậy những điều này đều bị cấm.
Bài 4. Ở nông thôn nước ta nhiều gia đình vẫn đun bếp rơm, bếp rạ, bếp củi. Khi mua rổ, rá, nong, nia (được đan bởi tre, nứa, giang) họ thường đem gác lên gác bếp trước khi sử dụng để độ bền của chúng được lâu hơn. Giải thích tại sao? ( Bài anđehit - xeton )
Phân tích: Do trong khói của bếp có chứa anđehit fomic HCHO, chất này có khả năng diệt trùng, chống mối mọt nên làm rổ, rá, nong, nia bền hơn.
Bài 5. Cà rốt là loại củ có chứa đường và có hàm lượng vitamin A rất cao. Nhiều người thích ăn cà rốt sống và làm nộm cà rốt vì cho rằng sẽ hấp thụ hết lượng vitamin A trong đó. Quan điểm đó có đúng không? Tại sao?( Bài: Khái niệm về tecpen)
Phân tích: Caroten trong cà rốt là nguồn sinh ra vitamin A. Tuy nhiên, đây là chất khó hấp thụ đối với cơ thể. Vì vậy, nếu ăn sống hay làm nộm thì 90% caroten không được hấp thụ.
Bản chất caroten chỉ tan trong dầu mỡ nên việc ninh, nấu chín cà rốt với dầu mỡ hay thịt là cách tốt nhất để sử dụng triệt để lượng vitamin dồi dào trong loại củ này. 
Bài 6. Trước kia, “phẩm đỏ” dùng để nhuộm áo choàng cho các Hồng y giáo chủ được tách chiết từ một loài ốc biển. Đó là một hợp chất có thành phần nguyên tố như sau: C: 45,7%; H: 1,9% ; O: 7,6% ; N: 6,7%; Br: 38,1%. Tìm công thức đơn giản nhất của “phẩm đỏ”. ( Bài : CTPT hợp chất hữu cơ )
Phân tích: CxHyOzNtBrp
x : y : z : t : p = : : : : = 8 : 4 :1 :1 :1.
 CTĐGN của phẩm đỏ: C8H4ONBr
Bài 7. Parametađion (thành phần chính của thuốc chống co giật) chứa 53,45%C; 7,01%H; 8,92%N; còn lại là O. Thực nghiệm cho biết trong phân tử Parametađion chỉ có 1 nguyên tử nitơ. Hãy xác định công thức phân tử của Parametađion. ( Bài: CTPT hợp chất hữu cơ )
Phân tích: C7H11NO3
Bài 8. Vì sao khi dùng axeton để lau sơn móng tay lại cảm thấy móng tay rất mát? ( Bài: Anđehit- xeton)
Phân tích: Axeton rất dễ bay hơi, quá trình bay hơi thu nhiệt của móng tay làm móng tay cảm thấy mát. 
Bài 9. a) Vì sao rượu càng để lâu càng ngon?
b) Để rượu nho có chất lượng tốt,người ta thường chứa rượu trong các thùng gỗ và chôn sâu dưới lòng đất, càng sâu càng tốt. Hãy giải thích tại sao? ( bài ancol )
Phân tích: a) Quá trình lên men rượu từ đường là một quá trình phức tạp, diễn ra theo nhiều giai đoạn, trong đó có qua các giai đoạn trung gian tạo anđehit. Anđehit làm giảm chất lượng, mùi vị của rượu, vì vậy nếu hàm lượng anđehit càng thấp thì rượu càng ngon.
Rượu càng để lâu thì quá trình lên men rượu càng xảy ra hoàn toàn, các sản phẩm anđehit trung gian sẽ chuyển thành rượu, do đó rượu càng để lâu càng ngon.
b) Thùng rượu được chôn sâu dưới đất để không khí không bị biến đổi nhiều như trên mặt đất. Ở dưới sâu thì khí oxy không nhiều, không làm cho rượu chua.
Bài 10. Vì sao về mùa hè, trên mặt hồ ao thường nổi lên nhiều bóng khí? Có 
phải là do cá đớp không khí không? ( Bài An Kan)
 Phân tích: Bọt khí thoát ra có thành phần chính là metan (do các vi khuẩn có mặt trong nước đã phân huỷ các hợp chất mùn có ở đáy hồ ao).
Về mùa hè, những lúc trời nắng nóng nhiệt độ của hồ ao cao hơn bình thường vì vậy độ tan của các khí trong nước hồ ao sẽ giảm xuống và thấp hơn nồng độ của chúng trong nước, một số khí thoát ra (ngoài CH4 còn có oxi, nitơ,) Khí metan là chất khí không màu, không mùi và hầu như không tan trong nước, do đó thoát ra ngoài tạo nên các bóng khí trên mặt hồ ao.
Bài 11. Trước đây phần lớn axetilen được sản xuất từ đất đèn. Phương pháp này có nhược điểm gì? Tại sao không nên xây dựng các lò xuất đất đèn ở khu vực đông dân? Ngày nay axetilen được sản xuất bằng cách nào? ( Bài an kin)
Phân tích: Muốn điều chế đất đèn từ C và CaO, người ta phải tốn rất nhiều năng lượng điện, vì phản ứng xảy ra ở nhiệt độ rất cao 25000C trong lò điện, với các điện cực lớn bằng than chì.
Chính vì vậy hiện nay trên quy mô công nghiệp người ta ít sản xuất axetilen từ đất đèn nữa, mà từ khí metan.
Không nên xây dựng các lò sản xuất đất đèn ở khu vực đông dân vì quá trình sinh ra khí CO là một khí rất độc.
Bài 12. Trước những năm 50 của thế kỷ XX, công nghiệp tổng hợp hữu cơ dựa trên nguyên liệu chính là axetilen. Ngày nay, người ta thường dùng etilen. Cho biết tại sao có sự thay đổi đó. ( Bài an kin )
Phân tích: Etilen là nguyên liệu rẻ hơn, tiện lợi hơn nhiều so với axetilen (etilen thu được từ quá trình khai thác và chế biến dầu mỏ). Phương pháp điều chế các monome để tổng hợp các polime đi từ etilen kinh tế hơn và ít ảnh hưởng đến môi trường.
Bài 13. a)Vì sao với xăng chỉ cần châm lửa là bắt cháy, còn dầu hoả phải dùng bấc mới đốt được? ( Bài nguồn hi đro cac bon thiên nhiên )
	b) Vì sao không nên dùng xăng để rửa tay tuy nó có thể rửa sạch các vết dầu mỡ? ( Bài nguồn hi đro cac bon thiên nhiên )
Phân tích: a) Xăng và dầu hoả đều được chế tạo từ dầu mỏ và chứa các hidrocacbon nhưng với số nguyên tử cacbon khác nhau. Xăng chứa các phân tử có số cacbon 5-11, còn dầu hoả là 11-16. Sự cháy của xăng và dầu hoả thuộc loại cháy do bay hơi và liên quan đến sự dẫn lửa và điểm bắt lửa. Điểm bắt lửa của một nhiên liệu lỏng là nhiệt độ thấp nhất để trên bề mặt nhiên liệu lỏng tạo thành hỗn hợp cháy của hơi với không khí.
Xăng có điểm bắt lửa thấp hơn nhiệt độ môi trường, khoảng - 46oC nên trên bề mặt của xăng ở nhiệt độ thường tồn tại hỗn hợp cháy với không khí. Khi hỗn hợp này chỉ cần tiếp xúc với ngọn lửa hoặc tia lửa là sẽ bắt cháy. Sau khi lớp hơi trên mặt xăng lỏng cháy, xăng lại tiếp tục bay hơi mạnh và sự cháy tiếp tục dược duy trì.
Dầu hoả có điểm bắt lửa 28-45oC cao hơn nhiệt độ môi trường. ở nhiệt độ thường trên bề mặt dầu hoả không có hỗn hợp cháy nên không dễ bắt lửa để cháy. Khi tẩm dầu hoả vào bấc đèn, dầu sẽ ngấm vào bấc. Bấc đèn dễ cháy và làm nhiệt độ xung quanh sợi bấc vượt quá điểm bắt lửa của dầu hoả làm cho dầu hoả trên bề mặt bấc đèn bốc cháy. Dầu hoả liên tục ngấm lên sợi bấc bảo đảm duy trì sự cháy.
b) Xăng có thể rửa sạch các chất dầu mỡ nhưng đồng thời cũng làm mất lớp mỡ bảo vệ trên da, làm cho da tay khô ráp, nứt nẻ tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập. Ngoài ra, trong xăng còn chứa cả phenol, toluen và các hợp chất thơm khác gây độc hại cho có thể. Hơn nữa, xăng dễ bay hơi, nếu tiếp xúc nhiều gây ngộ độc.
Bài 14. Vì sao khi đốt xăng, cồn thì cháy hết sạch, còn khi đốt gỗ, than đá lại còn tro? (Bài nguồn hi đro cac bon thiên nhiên )
Phân tích: Xăng và cồn chứa những hợp chất hữu cơ dễ cháy (hidrocacbon, rượu) nên khi đốt các thành phần của chúng đều cháy hết tạo CO2 và H2O.
Gỗ và than đá lại có thành phần hết sức phức tạp. Trong gỗ có những thành phần dễ cháy như xelulozơ, nhựa... nhưng gỗ còn chứa các khoáng chất không cháy được và tạo thành tro. Trong than đá ngoài cacbon và các hợp chất hữu cơ phức tạp còn có các chất khoáng là các muối silicat khi đốt sẽ không cháy và tạo tro.
Bài 15. Trong các trận bóng đá khi cầu thủ bị thương thường được chăm sóc bằng một loại thuốc phun lên vết thương. Thuốc đó chính là cloetan, vậy thì nguyên tắc giảm đau ở đây như thế nào? (Bài dẫn xuất halo gen của hiddrocac bon)
Phân tích: Cloetan là hợp chất hữu cơ có nhiệt độ sôi thấp 12,3oC. Khi phun cloetan vào da, nhiệt độ cơ thể làm cloetan bay hơi nhanh, làm cho da bị lạnh cục bộ và tê cứng. Do đó thần kinh cảm giác không truyền được cảm giác đau lên đại não. Đồng thời, do sự đông lạnh cục bộ khiến cho các huyết quản chỗ bị thương co lại nên làm cho vết thương ngừng chảy máu. Do vậy cloetan có thể làm giảm đau tạm thời.
Bài 16. Chúng ta đều biết metanol là chất rất độc, chỉ cần một lượng nhỏ vào cơ thể cũng có thể gây mù loà, lượng lớn có thể gây tử vong. Em hãy giải thích tại sao? ( Bài: an col)
Phân tích: Do metanol được oxi hoá bởi các enzim khử hiđro trong gan tạo ra fomanđehit. CH3OH + [O] → HCHO + H2O
Bài 17. Nguyên tắc hoạt động của dụng cụ phát hiện các lái xe uống rượu? ( Bài an col)
Phân tích: Thành phần chính của các loại đồ uống có cồn là rượu etylic. Rượu etylic là một chất dễ bị oxy hoá. Chất oxy hoá được dùng trong các máy đo độ cồn của lái xe là crom (VI) oxit CrO3, một chất kết tinh màu vàng da cam. Bột crom (VI) oxit CrO3 khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành crom (III) oxit Cr2O3 có màu xanh đen. Đây là phản ứng rất nhạy dùng để phát hiện rượu trong hơi thở của người lái xe.
Bài 18. Vì sao có người uống ít người uống được nhiều rượu ? (Bài an col)
Phân tích: Rượu có thành phần là cồn etylic. Cồn etylic vào cơ thể theo các biến đổi sau: đầu tiên nó biến thành anđehit axetic nhờ men anđehit xúc tác tiến hành sau đó anđehit lai bị biến đổi thành các hợp chất khác, cuối cùng là cacbon đioxit. Mỗi giai đoạn đảm nhận bởi một loại men xúc tác. Nhưng quyết định là giai đoạn biến rượu thành anđêhít nếu quá trình này không kịp thì người sẽ bị say. Người uống nhiều hay ít là tuỳ vào lượng men anđehit có trong máu nhiều hay ít
Bài 19. Tại sao người ta dùng fomon để ngâm xác động vật? ( Bài an đehit - axton )
Phân tích: Fomon là dung dịch anđehit fomic trong nước có nồng độ khoảng 37-40%. Fomon làm cho protein đông cứng lại và không thối rữa. Ngoài ra, do tính độc đối với vi khuẩn, anđehit fomic trong dung dịch còn có tính sát trùng.
Bài 20. Vì sao khi bóc vỏ hành, chúng ta lại bị chảy nước mắt? ( Bài tự chon nâng cao anđehit )
Phân tích : Các nhà sinh học đã tìm thấy chất propylthial CH3-CH2CH=SO, một anđehit có lưu huỳnh ở trong nước hành. Khi tiếp xúc với bề mặt ướt của mắt chất này phản ứng với nước tạo thành axit sunfurơ - chất làm cay và chảy nước mắt.
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
2.3.1. Mục đích thực nghiệm
Bước đầu nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tiễn dạy học Hóa học ở trường THPT nơi tôi công tác.
2.3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm
- Biên soạn tài liệu thực nghiệm theo hệ thống bài tập đã được đề xuất.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng bài tập đã được đề xuất.
- Phân tích kết quả thực nghiệm từ đó rút ra kết luận năng lực giải quyết vấn đề khi sử dụng BTTT
2.3.3. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
Chúng tôi chọn 02 lớp 11 ban nâng cao ( hai lớp này tương đương về số lượng học sinh và chất lượng học tập)
- Lớp đối chứng (lớp 11A2): Dạy theo phương pháp bình thường.
- Lớp thực nghiệm ( lớp 11A3): Dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh qua giáo án đã xây dựng.
Sau đó chúng tôi tiến hành theo các bước:
- Kiểm tra 1 bài 15 phút
- Chấm theo thang điểm 10
Sau khi dạy xong bài an đe hit - xe ton chúng tôi tiến hành kiểm tra.
KIỂM TRA 15 PHÚT
Đề bài:
 Câu 1. Thời gian vừa qua báo chí đưa tin việc ngộ độc rượu tại Hậu Giang, Sóc Trăng. Đa số người chết do ngộ độc loại rượu chứa nhiều metanol. Hãy giải thích vì sao metanol lại gây hại đến như vậy?
Câu 2. Có 400 ml rượu 750 và nước cất đủ dùng cùng dụng cụ đo thể tích cần thiết có thể pha chế được bao nhiêu ml rượu 300? Hãy trình bày cách pha.
Đáp án
1. (3 điểm)
Metanol là chất rất độc, chỉ cần một lượng nhỏ vào cơ thể cũng có thể gây mù loà, lượng lớn có thể gây tử vong.	(1 điểm)
Do metanol được oxi hoá bởi các enzim khử hiđro trong gan tạo ra fomanđehit. (1 điểm )
 CH3OH + [O] → HCHO + H2O (1 điểm)
2. Thể tích ancol etylic nguyên chất có trong 400ml rượu 750 là:
ml 	( 1 điểm)
Gọi x là thể tích rượu 300 pha được, thể tích etanol nguyên chất cần dùng là:
	 ml. Vậy . Giải được x = 1000 ml (4 điểm)
Cách pha: Lấy 400ml rượu 750 cho vào bình định mức dung tích 1000ml, thêm nước cho đủ. ( 2 điểm)
2.3.4. Kết quả thực nghiệm
Bảng tổng hợp điểm 
Đối tượng
Số HS
Điểm dưới 5
Điểm 5-6
Điểm 7 - 8
Điểm 9 - 10
Đối chứng
41
12
15
7
7
Thực nghiệm
42
7
10
15
10
Qua thực nghiệm chúng tôi thấy rằng:
Ở lớp thực nghiệm chúng tôi soạn giảng theo hướng sử dụng BTTT để phát triển năng lực GQVĐ thì kết quả học tập cao hơn, học sinh hứng thú và giờ học sinh động hơn.
Ở lớp đối chứng chúng tôi soạn giảng bình thường. Chính vì thế kết quả của lớp đối chứng này không cao.
Qua kết quả chúng tôi nhận thấy việc sử dụng BTTT để phát triển năng lực GQVĐ là cần thiết và khả thi có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học môn hóa học ở trường trung học phổ thông.
3. PHẦN KẾT LUẬN 
	3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài, sáng kiến , giải pháp
Qua một thời gian dài tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm đề tài xây dựng và thiết kế bài tập thực tiễn để giải quyết năng lực giải quyết vấn đề cho HS, sau đó đưa vào dạy học các bài học phù hợp, làm cho việc tổ chức các hoạt động dạy và học được thực hiện theo hướng tích cực, chúng tôi có cơ sở để khẳng định được hiệu quả của nó:
- Giúp học sinh nhớ lâu kiến thức hơn, hứng thú hơn, có khả năng giải thích được một số vấn đề thực tiễn thông qua kiến thức đã học.
- Thông qua khả năng giải quyết vấn đề của HS, giáo viên có thể đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức của HS ở mức độ nào, để kịp thời uốn nắn.
- Kết quả học tập được nâng cao rõ rệt: số lượng học sinh khá - giỏi tăng lên, số học sinh trung bình, yếu và kém giảm xuống.
Để nâng cao hiệu quả dạy và học môn hóa học ở trường trung học phổ thông chúng ta có nhiều phương pháp, biện pháp khác nhau trong đó BTTT đóng một vài trò quan trọng trong việc phát triển năng lực GQVĐ cho học sinh.
BTTT là một trong những dạng bài tập hay nhằm tăng tính thực tiễn của môn học, lôi cuốn được nhiều học sinh, làm cho học sinh yêu thích môn hóa học từ đó khơi dậy niềm đam mê học tập và động lực học tập trong các em. Thực tế cho thấy rằng, việc học môn hóa học ở trường trung học phổ thông ở trường chúng tôi trong những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến tốt.
3.2. Kiến nghị, đề xuất 
a. Đối với nhà trường
- Cần tổ chức hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông để giáo viên trong nhà trường học hỏi kinh nghiệm giảng dạy.
- Sau mỗi bài soạn phải có những câu hỏi, bài tập tích hợp có nội dung liên quan đến bài học nhằm tăng tính thực tiễn của bộ môn và có tính giáo dục.
b. Đối với Bộ Giáo dục & Đào tạo
Sắp xếp số tiết trong phân phối chương trình được nhiều hơn, qua đó tăng thời lượng và lượng bài tập để rèn luyện cho học sinh, để có thể truyền tải cơ bản những nội dung và các dạng toán theo chủ đề mà học sinh cần nắm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Năm (2001), Sử dụng dạy học nêu vấn đề - Ơrixtic để nâng cao hiệu quả dạy học chương trình hóa đại cương và hóa vô cơ ở trường trung học phổ thông, Luận án tiến sĩ giáo dục học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
2. Đặng Thị Oanh (Chủ biên), Trần Trung Ninh, Đỗ Công Mỹ (2006), Câu hỏi lý thuyết và bài tập thực tiễn trung học phổ thông, Tập 1, Nhà xuất bản giáo dục.
3. Đỗ Công Mỹ (2005), Xây dựng, lựa chọn hệ thống câu hỏi lý thuyết và bài tập thực tiễn môn hóa học trung học phổ thông (phần hóa đại cương và vô cơ), Luận văn thạc sĩ giáo dục học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội
4. Lê Thị Kim Thoa (2012), Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập hóa học gắn với thực tiễn dùng trong dạy học hóa học ở trường phổ thông, Luận văn Thạc sĩ Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.	
5. Ngô Thị Kim Tuyến (2004), Xây dựng hệ thống bài tập thực tiễn hóa học lớp 11 Trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ Giáo dục học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Hoàng Thị Huyền(2015), Sử dụng hệ thống bài tập hóa học chương oxi – lưu huỳnh hóa học lớp 10 nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh, Luận văn thạc sĩ, ĐHGD – ĐHQG Hà Nội.
7. Đặng Thị Nga (2015), Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy học phần hidrocacbon - Hóa học lớp 11 trung học phổ thông. Luận văn thạc sĩ, ĐHGD – ĐHQG Hà Nội.
8. Trương Thị Khánh Linh(2015), Phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh thông qua dạy học chương oxi – lưu huỳnh hóa học lớp 10. Luận văn thạc sĩ, ĐHGD – ĐHQG Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Hoàn (2014), Phát triển năng lực vận dụng kiến thức thông qua dạy học chương “ Dẫn xuất Halogen- Ancol- Phenol”, Luận văn thạc sĩ Giáo dục học, Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Xuân Trường (Chủ biên) (2007), Sách giáo viên - Hoá học 11, Nxb Giáo dục.
11. Nguyễn Xuân Trường (Chủ biên) (2007), Bài tập Hóa học 11, Nxb Giáo dục.
12. Tống Thị Trang (2014), Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua hệ thống bài tập hoá học phần đại cương và hi đrocacbon hoá học 11 nâng cao, Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục, Đại học sư phạm Hà Nội.
13. Vụ THPT (2008), Phân phối chương trình môn Hóa học THPT, thực hiện từ năm học 2008-2009, Bộ GD-ĐT
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29 NQ/WT của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
15. Bộ GD & ĐT (2017), Dự thảo “Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể ”
16. Nguyễn Công Khanh (7/2012), Một số vấn đề chung về NL và đề xuất khung NL cốt lõi của HS pổ thông sau 2015, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_thiet_ke_va_su_dung_bai_tap_thuc_tien.doc
Sáng Kiến Liên Quan