Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú khi mở đầu bài giảng điện tử trong giảng dạy Vật lý ở trường Phổ thông

I. Quan điểm về hứng thú học tập của các nhà tâm lý học trên thế giới

- Annoi, nhà tâm lý học người Mỹ, cho rằng hứng thú là một sự sáng tạo của tinh

thần với đối tượng mà con người muốn tham gia vào.

- V.N.Miasixep, V.G.Ivanôp, A.Gackhipop các nhà tâm lý học người Nga coi

hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá nhân với những đối tượng trong hiện thực

khách quan.

- A.A.Luiblinxcaia đã khẳng định hứng thú là thái độ nhận thức, thái độ khao khát

đi sâu vào một khía cạnh nhất định của thế giới xung quanh.

Tóm lại, các nhà tâm lý học trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề hứng

thú, đặt hứng thú trong mối quan hệ với các thuộc tính tâm lý khác của nhân cách làm

cho khái niệm hứng thú phong phú và đầy đủ hơn.

II. Quan niệm về hứng thú học tập ở Việt Nam

Ở Việt Nam, các vấn đề về hứng thú đã được quan tâm nghiên cứu và đưa ra

những quan niệm không giống nhau:

- Theo Nguyễn Quang Uẩn, trong “Tâm lý học đại đại cương”, coi “Hứng thú là

thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống,

vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động”. Khái niệm

này vừa nêu lên bản chất của hứng thú, vừa gắn hứng thú với hoạt động của cá nhân.

- Nhóm các tác giả Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng:

“Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức và hiểu ý

nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối

với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó, tạo ra tâm lý

khát khao tiếp cận đi sâu vào nó”.

Tóm lại, hứng thú là thái độ của cá nhân đối với một đối tượng hay quá trình nào

đó đã đem lại những thích thú đến tính tích cực cá nhân, đòi hỏi họ có thể huy động sinh

lực một cách trọn vẹn để thực hiện. Gây hứng thú trong dạy học vật lý là quá trình người

giáo viên tác động vào nội dung học tập, môi trường học tập, phương tiện dạy học, đối

tượng dạy học nhằm giúp học sinh thích thú, quan tâm đến chúng. Từ đó, học sinh ham5

thích tìm hiểu để tự bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ. Việc làm này là một điều rất

quan trọng, nó góp phần giúp cho quá trình dạy và học đạt được hiệu quả cao.

pdf36 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 01/03/2022 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú khi mở đầu bài giảng điện tử trong giảng dạy Vật lý ở trường Phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 giáo viên nhắc đến dạng năng 
 22 
lượng bên trong vật chất gọi là nội năng. Hình ảnh các dạng năng lượng được 
khai thác phổ biến 
Khi mở đầu chương Khúc xạ ánh sáng, 
giáo viên sử dụng video clip giới thiệu 
ứng dụng của ánh sáng: trang trí, lễ hội, 
chiếu sáng, thí nghiệm 
Từ đó giới thiệu khi khảo sát đường 
truyền của ánh sáng ta có các hiện 
tượng: phản xạ, khúc xạ ánh sáng, phản 
xạ toàn phần,  
Ánh sáng được sử dụng rộng rải trong 
đời sống 
 Kết luận: Đây là cách thức mở đầu bài giảng điện tử được nhiều giáo viên sử 
dụng. Tác dụng làm bật lên được trọng tâm của bài học, học sinh thấy được mục đích của 
việc học tập. Không khí học tập sẽ sôi động hơn. Giáo viên chú ý sắp xếp thời gian phù 
hợp. 
 23 
III. Mở đầu bài giảng bằng phim ảnh 
1. Khái niệm 
 - Phim ảnh trong giảng dạy là đoạn phim mô tả lại thí nghiệm mà không thể thực 
hiện tại lớp hoặc là một thí nghiệm đơn giản được quay lại thành video để phục vụ việc 
giảng dạy. 
2. Tác dụng 
 - Đối với giáo viên 
 + Làm phong phú thêm bài giảng của giáo viên. 
 + Phát triển khả năng sử dụng công nghệ thông tin. 
 - Đối với học sinh 
 + Kiến thức vật lý được dẫn dắt bằng phim ảnh trực quan sẽ tập trung được sự chú 
ý của học sinh. 
 + Tạo cảm giác tò mò muốn khám phá kiến thức mới cho học sinh. 
 + Giúp học sinh có thêm hứng thú. 
3. Các bước tiến hành 
  Bước 1: Tìm ra các phim ảnh có liên quan đến nội dung của bài học. 
  Bước 2: Dùng phần mềm PowerPoint để kết hợp các phim ảnh lại thành một 
phần mở bài hoàn chỉnh. 
4. Ví dụ hình thức mở đầu bằng phim ảnh 
  Ví dụ 1: Để mở đầu bài dạy “Nội năng. Sự biến thiên nội năng” vì sự chuyển 
đọng của các phân tử hay nguyên tử không thể nhìn thấy được nên để học sinh có thể dễ 
hình dung bằng trực quan giáo viên có thể chuẩn bị một đoạn phim chuẩn bị trước để tạo 
sự tò mò cho học sinh. 
- Đoạn phim 1: Giúp học sinh quan sát 
trực quan về sự chuyển động hổn loạn 
của phân tử khí. 
- Đoạn phim 2: Giúp liên tưởng khi nhiệt 
độ tăng thì sự chuyển động nhiệt của 
phân tử cũng tăng và hổn loạn nhiều 
hơn. Từ đó rút ra kết luận nội năng tăng. 
 24 
  Ví dụ 2: Khi dạy bài “Phản xạ toàn phần”, để tạo hứng thú cho học sinh giáo 
viên có thể chiếu thí nghiệm bẻ cong tia sáng. Trong đoạn phim này đã mô tả rất rõ ràng 
các trường hợp chiếu tia sáng để có hiện tượng phản xạ toàn phần. 
Câu hỏi mở đầu bài học: Làm thế nào để bẻ cong tia sáng? 
Giáo viên chiếu đoạn phim mô tả quá 
trình tạo ra sự phản xạ toàn phần trong 
nước, giới thiệu từng giai đoạn và vào 
bài mới. 
- Hình ảnh tia sáng bị bẻ cong làm tăng 
sự hứng thú, tò mò muốn tìm hiểu bài 
học của học sinh. 
Chiếu một tia sáng từ nước ra không khí 
- Hình ảnh 1: Khi góc chiếu nhỏ, tia 
sáng bị khúc xạ ra ngoài không khí. 
- Hình ảnh 2: Tăng góc tới lên, tia khúc 
xạ bị kéo gần về phía mặt nước. 
- Hình ảnh 3: Tiếp tục tăng góc tới, tia 
khúc xạ bị kéo gần về phía mặt nước 
hơn. 
- Hình ảnh 4: Khi góc tới tăng hơn giá trị 
đặc biệt nào đó, tia sáng bị phản xạ hoàn 
toàn trong nước. Sự phản xạ này được 
lập lại nhiều lần trong dòng nước, nên 
nhìn từ bên ngoài giống như tia sáng bị 
bẻ cong. 
 25 
  Ví dụ 3: Chương sóng cơ lớp 12 là một chương có lượng kiến thức tương đối 
khó đối với học sinh, các hiện tượng vật lí trong chương này khó hình dung, vì vậy cần 
tăng cường sử dụng phim ảnh để học sinh quan sát trực quan tại lớp, tạo hứng thú cho 
học sinh khi tiếp thu bài học đồng thời dễ khắc sâu kiến thức. 
- Trong bài “Sóng cơ. Sự truyền sóng cơ” 
ta dùng đoạn phim mô tả sự truyền sóng 
trên dây và sự truyền pha của các phần tử 
trên phương truyền sóng. 
- Để hình dung sóng ngang và sóng dọc 
ta dùng một đoạn phim để mô tả cho học 
sinh. Qua đoạn phim giáo viên có thể 
dùng bút chỉ bảng để nói rõ về phương 
truyền sóng và phương dao động của 
phần tử trong hai trường hợp trên. 
- Trong bài “Giao thoa sóng cơ” giáo 
viên dùng đoạn phim mô tả sự giao thoa 
sóng trên mặt nước của hai nguồn cùng 
biên độ, cùng pha để học sinh dễ hình 
dung và hiểu hiện tượng giao thoa. 
- Trong bài “Sóng dừng” giáo viên dùng 
đoạn phim mô tả sự xuất hiện của các bó 
sóng trên dây. Đồng thời cũng thấy được 
sóng dừng xuất hiện khi chiều dài dây 
phải thỏa một giá trị nào đó phụ thuộc 
vào máy phát tần số. 
  Ví dụ 4: Khi dạy bài “Laze” trong chương trình vật lý 12, giáo viên có thể trình 
chiếu đoạn phim nói về ứng dụng của laze trong thực tế sẽ tạo cho học sinh sự hứng thú 
tò mò kiến thức mới. 
 26 
Ánh sáng mặt trời, ánh sáng bóng đèn là một phần không thể thiếu trong cuộc 
sống của chúng ta. 
Ngoài những ánh sáng đó còn có một ánh sáng kì diệu nữa. Hãy đoán xem đó là ánh 
sáng gì nhé? 
- Ánh sáng đó được dùng để biểu diễn 
trên sân khấu 
- Ánh sáng đó được sử dụng trong việc 
giảng dạy, dùng để làm bút chỉ bảng. 
- Ánh sáng đó còn dùng để làm dao mổ 
mắt. 
Ánh sáng mà chúng ta vừa xem đó là 
ánh sáng lazer. Laze có tính chất như thế 
nào, kì diệu ra sao chúng ta cùng tìm 
hiểu bài học hôm. 
 Kết luận: Việc mở đầu bài giảng bằng phim ảnh giúp học sinh nhìn và nghe giải 
thích trực tiếp, giúp học sinh thích thú, tích cực trong giờ học. Qua phim ảnh học sinh 
tăng thêm niềm tin vào kiến thức được giáo viên truyền đạt, nhớ sâu kiến thức. 
 27 
IV. Mở đầu bằng thí nghiệm biểu diễn tại lớp 
1. Khái niệm 
 - Thí nghiệm biểu diễn tại lớp có thể là thí nghiệm biểu diễn cũng có thế là một số 
thí nghiệm vui nhỏ có chức năng liên hệ đến kiến thức bài học. 
 - Thí nghiệm biểu diễn có thể thực hiện tại lớp, học sinh cùng tham gia vào thực 
hiện. 
2. Tác dụng 
 - Đối với giáo viên 
 + Tạo thêm sự phong phú trong bài dạy 
 + Kích thích sự sáng tạo trong cách thức tổ chức bài học 
 - Đối với học sinh 
 + Thí nghiệm vật lý là một trong những phương tiện trực quan giúp cho giáo viên 
nhanh chóng truyền đạt tới học sinh những kiến thức trong bài học, tạo hứng thú học tập 
trong học sinh. Trong đổi mới phương pháp, thí nghiệm vật lý có thể được sử dụng tạo 
tình huống có vấn đề, mở đầu cho một cuộc thảo luận trong học trò. 
 + Đối với thí nghiệm để nghiên cứu bài mới học sinh có thể được tự tay làm thí 
nghiệm nên có sự phối hợp giữa hoạt động trí óc với hoạt động tay chân trong quá trình 
nhận thức của học sinh từ đó giúp học sinh tích cực tham gia xây dựng bài, hình thành 
các kiến thức, khái niệm một cách chủ động, kích thích hứng thú học tập, rèn luyện cho 
học sinh nhận thức, phân tích những dấu hiệu, hiện tượng cụ thể bằng kinh nghiệm riêng 
của chính mình, thu hút mọi khả năng của học sinh vào nhận thức đối tượng. 
3. Các bước tiến hành 
  Bước 1: Tìm ra các thí nghiệm liên quan đến bài học. Số lượng thí nghiệm 
trong một bài vừa phải, lựa chọn thí nghiệm dễ thực hiện, tiết kiệm thời gian trên lớp. 
Giáo viên cần cải tiến các thí nghiệm vật lý theo hướng dễ thực hiện nhưng vẫn thành 
công và đảm bảo tính trực quan, khoa học. 
  Bước 2: Kết hợp chặt chẽ thí nghiệm với lời giảng của giáo viên. Lúc này lời 
giảng của giáo viên không phải là nguồn thông tin mà là sự hướng dẫn quan sát, chỉ đạo 
sự suy nghĩ của học sinh để học sinh hứng thú trong bài học mới. 
  Bước 3: Tìm những hình ảnh, mô hình, tranh ảnh liên quan đến thí nghiệm vừa 
thực hiện nhằm làm tăng sự hứng thú. 
 28 
  Bước 4: Dùng phần mềm Powerpoint để kết hợp việc trình diễn thí nghiệm với 
những hình ảnh thật sinh động. 
4. Một số ví dụ mở bài bằng thí nghiệm 
 Khi bắt đầu tiết dạy, người giáo viên luôn trong tâm trạng làm sao học sinh sẽ tập 
trung nhất. Chăm chút cho việc mở đầu bài giảng góp một phần vào sự thành công trên. 
 Ví dụ 1: Khi dạy bài “Lực ma sát” thì 
giáo viên có thể làm thí nghiệm đơn giản 
tại lớp với lực kế, một vài mẫu gỗ, thép... 
+ Dùng lực kế kéo mẫu gỗ, từ lực tác 
dụng, giúp học sinh hình thành khái niệm 
lực ma sát, đặc điểm lực ma sát ... 
+ Thay đổi bằng mẫu thép và cũng kéo 
cho chuyển động giống như ban đầu. So 
sánh độ lớn của lực kế trong hai trường 
hợp và nhận xét về sự phụ thuộc của lực 
ma sát vào vật liệu. 
Thí nghiệm lực ma sát phụ thuộc 
vào vật liêu 
 Ví dụ 2: Khi dạy bài “Lực hướng 
tâm”, giáo viên có thể chuẩn bị một sợi 
dây, một xô nước nhỏ và cho học sinh 
làm thí nghiệm tại lớp giống như trên 
hình ... Thông qua thí nghiệm hình thành 
kiến thức như sau: 
a) Lực gì giữ cho xô nước không bị văng 
ra ngoài? 
b) Lực đó có hướng như thế nào? 
c) Làm sao xác định độ lớn của lực? 
Thí nghiệm quay xô nước trong 
mặt phẳng nằm ngang 
 Ví dụ 3: Khi dạy bài “Bài toán về 
chuyển động ném ngang”, giáo viên có 
thể chuẩn bị quả banh tennis và thí 
nghiệm đơn giản tại lớp giống như hình 
vẽ ... 
a) Phân biệt chuyển động ném ngang và 
Thí nghiệm ném quả banh tennis để 
 29 
chuyển động ném xiên. 
b) Quỹ đạo chuyển động của quả banh. 
c) Tầm bay xa của ném ngang. 
phân biệt ném ngang và ném xiên 
 Ví dụ 4: Khi dạy bài “Khúc xạ ánh 
sáng”, giáo viên có thể chuẩn bị một ly 
nước và một chiếc ống hút, sau đó làm thí 
nghiệm đơn giản tại lớp như sau... Thông 
qua thí nghiệm giúp giới thiệu về hiện 
tượng khúc xạ ánh sáng, tạo hứng thú cho 
học sinh. 
Thí nghiệm khúc xạ ánh sáng 
 Ví dụ 5: Khi dạy bài “Quá trình đẳng 
nhiệt. Định luật Bôi-lơ – Ma-ri-ốt”, giáo 
viên có thể chuẩn bị ống tiêm, một quả 
bong bóng nhỏ cho vào ống tiêm. 
+ Bịt kín hai đầu ống tiêm, ta khảo sát 
lượng khí không đổi. 
+ Qua việc ấn pittong từ từ để nhiệt độ 
khối khí không đổi, giới thiệu quá trình 
đẳng nhiệt. 
+ Hình dạng của quả bong bóng bị co lại 
khi ấn pittong và bị dãn ra khi kéo pitton 
chứng tỏ áp suất phụ thuộc vào thể tích. 
Giáo viên vào bài mới. 
Thí nghiệm tìm hiểu sự phụ thuộc 
của áp suất theo thể tích 
 Kết luận: Việc mở đầu bài dạy bằng phương pháp yêu cầu người giáo viên phải 
chuẩn bị dụng cụ để thực hiện gây khó khăn khi đến lớp. Nhưng tôi thiết nghĩ nếu vì sự 
tận tâm yêu nghề và số lớp giảng dạy không nhiều, số học sinh trên một lớp không quá 
đông thì việc mở bài bằng phương pháp thí nghiệm trực quan trên sẽ tạo một hiệu ứng 
tích cực trong công việc giảng dạy. Giáo viên có thể linh hoạt tổ chức các hoạt động thí 
nghiệm nhỏ này cho các lớp được chia theo nhóm (đã chuẩn bị dụng cụ trước theo ý đồ 
bài dạy), phát kèm phiếu học tập cho các em thực hiện nhóm vào trong đó dưới sự hướng 
dẫn của giáo viên để bài học thuận lợi. 
 30 
V. Mở đầu bài giảng bằng một số trò chơi tích cực 
1. Tác dụng 
 - Đối với giáo viên 
 + Tạo sự sáng tạo, luôn tìm tòi cái mới, đầu tư cho việc phát triển phương pháp 
giảng dạy. 
 + Tạo thêm nguồn tư liệu phong phú cho bài dạy. 
 - Đối với học sinh 
 + Giúp học sinh thoát khỏi trạng thái mệt mỏi từ tiết trước, không khí sôi nổi 
trong học tập. 
 + Yêu thích giờ học bộ môn, tiếp thu kiến thức với sự đam mê. 
2. Các bước tiến hành 
  Bước 1: Sưu tầm hoặc tự sáng tạo một số hoạt động tích cực trong đầu giờ dạy. 
  Bước 2: Tìm kiếm những hình ảnh phù hợp với nội dung cần trình bày, thiết kế 
trò chơi sao cho hợp lý. 
  Bước 3: Dùng bài giảng điện tử để kết hợp hình ảnh và câu đố thành một phần 
mở bài hoàn chỉnh. 
  Bước 4: Tổ chức tiến hành. 
3. Một số điều cần lưu ý 
 - Chọn những trò chơi phù hợp với nội dung bài học. 
 - Hình ảnh được chọn để minh họa phải phù hợp với nội dung bài học. 
 - Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi gợi ý nhỏ để học sinh dễ trả lời. 
 - Có thể đưa ra những hình thức tính điểm, cộng điểm theo nhóm để các em thêm 
hào hứng. 
 - Chỉ nên đưa một hoặc hai câu hỏi vào phần mở bài, tránh gây mất thời gian. 
 - Cần có biện pháp ổn định lớp, tránh gây ồn ào, mất trật tự. 
 - Sau khi tìm ra đáp án, giáo viên phải giải thích rõ ràng cho học sinh hiểu. 
 - Không nên quá lạm dụng hình thức này vì sẽ làm cho học sinh nhàm chán. 
4. Một số trò chơi tích cực mở đầu bài giảng 
Những câu hỏi, những bài tập của phần kiểm tra bài cũ thường gây cho học sinh cảm 
giác lo lắng căng thẳng. Sau khi kiểm tra bài cũ, giáo viên nên thay đổi không khí lớp 
học bằng một trò chơi nhỏ. Hoạt động đố vui theo nhóm giúp học sinh củng cố kiến thức 
 31 
đã học trong các bài đã học và còn giúp liên hệ các hiện tượng thực tế. Từ đó, học sinh 
cảm thấy thoải mái, thích thú khi tiếp thu kiến thức mới. 
 Trò chơi 1: Điền các cụm từ thích 
hợp vào chỗ trống 
- Hình thức này phù hợp với kiểm tra bài 
cũ, ôn tập bài mới. 
 Trò chơi 2: Chọn ô số và đón hình 
- Mỗi ô số sẽ tương ứng với một hình có 
liên quan đến kiến thức của bài mới. 
Giáo viên chuẩn bị hình ảnh rồi lồng 
ghép câu hỏi nhỏ để học sinh trả lời 
được câu hỏi. 
 Trò chơi 3: Ô chữ kì diệu 
- Có một ô chữ nói lên nội dung bài mới. 
- Các câu hỏi trong ô chữ có thể là hình 
ảnh, đoạn phim mô tả ứng dụng, thậm 
chí là thơ đố,  có liên quan đến nội 
dung bài học. 
- Sau khi giải xong các ô chữ, thì nội 
dung bài mới sẽ hiện ra và giáo viên 
tổng kết lại. 
 Trò chơi 4: Đoán hình 
- Có một số mảnh ghép là hình của một 
nhà khoa học phát minh ra định luật hay 
nội dung kiến thức bài học. Giáo viên 
lựa chọn các câu hỏi phù hợp để học sinh 
trả lời dễ dàng 
 32 
- Sau khi có mảnh ghép được mở, giáo 
viên giới thiệu nhà khoa học và hướng 
dẫn tiếp nội dung bài học mới. 
 Trò chơi 5: Liệt kê chức năng 
- Có một hình ảnh chứa nhiều ứng dụng 
của kiến thức liên quan đến bài học, giáo 
viên cho học sinh hoạt động nhóm để 
đưa ra các ứng dụng đó. 
- Đây là hoạt động thảo luận nhóm rất 
tốt, tạo hiệu ứng tích cực trong việc mở 
đầu bài giảng điện tử. 
 Trò chơi 6: Kéo cột 
- Có nhiều sự lựa chọn để đưa vào nội 
dung cần phân chia kiến thức bài mới. 
Giáo viên cho nhiều lựa chọn để học 
sinh có thể thảo luận nhóm và sắp xếp 
sao cho phù hợp. Mỗi sự sắp xếp đúng 
theo ý đồ nội dung bài mới hoặc kiến 
thức mới cần truyền tải. 
 33 
 Trò chơi 7: Nối cột 
- Có 2 cột nội dung A và B. giáo viên 
chuẩn bị cho học sinh hoạt động nhóm 
để tra thông tin sách giáo khoa để nối cột 
đúng yêu cầu thông qua đó nhận dạng 
kiến thức liên quan đến bài mới. 
 Trò chơi 8: Thơ đố 
- Giáo viên tìm các bài thơ có nội dung 
nói về hiện tượng hay định luật có liên 
quan đến nội dung bài học mới, qua thơ 
đó giúp tạo tính tò mò từ học sinh. 
Ly nước đá của cô
Không nứt, cũng không bể
Ồ, nhưng sao lạ thế!
Những giọt nước bên ngoài
Cứ đua nhau chảy dài
Ướt đẫm cả bàn tay ?
 Trò chơi 9: Tra tìm thông tin mới 
- Đây là một hoạt động mới trong việc 
đổi mới phương pháp giảng dạy. 
- Giáo viên đưa ra một hình ảnh thực tế 
có liên quan đến nội dung bài học mới. 
Trong hình ảnh đó, giáo viên giao có thể 
hỏi kèm 2, 3,  câu hỏi nhỏ cho học 
sinh tra thông tin trên mạng bằng thiết bị 
thông minh tại lớp. Hoạt động này được 
thực hiện theo nhóm và ghi báo cáo vào 
phiếu học tập. Giáo viên thu và chấm kết 
quả. 
- Ví dụ khi dạy bài “Lực hướng tâm” 
giáo viên đưa hình về việc phóng và hình 
ảnh của vệ tinh VINASAT 1, VINASAT 
2 của Việt Nam và hỏi kèm một số câu 
hỏi sau: 
1) Việt Nam có mấy vệ tinh địa tĩnh, hãy 
trình bày sơ lược về vệ tinh đó. 
Vệ tinh địa tĩnh của Việt Nam 
 34 
2) Khi chuyển động trên quỹ đạo, vệ tinh 
chịu tác dụng của lực gì? 
3) Ý nghĩa của việc phóng vệ tinh địa 
tĩnh? 
- Ví dụ khi dạy bài “Lực Lorentz” giáo 
viên đưa hình hiện tượng cực quang và 
hỏi kèm một số câu hỏi sau: 
1) Hiện tượng cực quang là gì? xảy ra ở 
đâu? 
2) Hiện tượng cực quang có tác dụng gì? 
- Ví dụ khi dạy bài “Phản xạ toàn phần” 
giáo viên đưa hình về ứng dụng của sợi 
quang học và hỏi kèm một số câu hỏi 
sau: 
1) Dụng cụ dùng trong y tế khi nội soi 
được gọi là gì? 
2) Dụng cụ đó hoạt động dựa trên hiện 
tượng gì? 
3) Trong đời sống, hiện tượng trên còn 
có những ứng dụng khác nào? 
Hiện tượng cực quang 
Sợi quang học ứng dụng trong y tế 
 Kết luận: Việc mở bài theo các cách trên có thể gây mất trật tự trong vòng 5-10 
phút đầu giờ, giáo viên phải thật sự nắm vững kiến thức, quản lý lớp thật tốt thì áp dụng 
mới thành công. 
 Mở rộng vấn đề: Hoạt động mở đầu bằng các cách trên giúp học sinh thoát khỏi 
“trạng thái ì” của bản thân, đưa học sinh vào tình huống có nhu cầu học tập tích cực. 
Ngoài ra còn giúp giáo viên luôn đầu tư chuyên môn cho mình về mặt kiến thức liên hệ 
thực tế. Ngoài ra giáo viên có thể suy nghĩ thêm các hoạt động khác để phát triển thêm 
phương pháp dạy học của mình. 
 35 
KẾT LUẬN 
1. Kết luận 
 Vật lý là môn khoa học thực nghiệm rất có ý nghĩa trong cuộc sống. Và khi nhu 
cầu đổi mới phương pháp dạy học được phổ biến như hiện nay, việc làm cho học sinh 
yêu thích và có hứng thú học tập vật lý, giúp cho chất lượng dạy và học vật lý ngày càng 
được nâng cao. Cũng với mục đích đó, đề tài “TẠO HỨNG THÚ KHI MỞ ĐẦU BÀI 
GIẢNG ĐIỆN TỬ TRONG GIẢNG DẠY VẬT LÝ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG” đã 
góp một phần nhỏ làm cho học sinh yêu thích bộ môn vật lý. Trong quá trình thực hiện 
đề tài của mình, tuy có gặp những khó khăn về thời gian và tài liệu tham khào nhưng đối 
chiếu với mục đích với mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài, tôi đã đạt được một 
số kết quả sau: 
  Về cơ sở lý luận 
 - Trình bày khái quát lịch sử của vấn đề nghiên cứu 
 - Tìm hiểu khái quát về khái niệm, bản chất, quy luật và tác dụng của hứng thú 
trong học tập. 
 + Bản chất của việc gây hứng thú trong dạy học vật lý 
 + Các quy luật của việc gây hứng thú trong dạy học 
 + Tác dụng của hứng thú trong dạy học vật lý 
 - Hệ thống được một số khái niệm, phân loại, tác dụng của phương tiện dạy học 
và một số nguyên tắc khi sử dụng chúng. 
 - Tóm tắt khái quát những nội dung về mở đầu bài giàng, làm tiền đề lý luận cho 
đề tài. 
  Về thiết kế tư liệu 
 Có rất nhiều hình thức mở đầu, tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ 
tập trung nghiên cứu 5 hình thức chính. Tôi thiết kế được một số phần mở đầu bài giảng 
giáo án điện tử trong chương trình vật lý phổ thông theo các dạng bài sau: 
 - Mở đầu bài giảng bằng cách kể chuyện qua hình ảnh 
 - Mở đầu bài giảng bằng cách liên hệ thực tế 
 - Mở đầu bài giảng bằng phim ảnh. 
 - Mở đầu bài giảng bằng thí nghiệm biểu diễn 
 - Mở đầu bài giảng bằng cách tổ chức hoạt động trò chơi 
  Về sưu tầm tư liệu 
 36 
 Đề tài đã sưu tầm một số câu chuyện, hình ảnh, phim ảnh có nội dung kiến thức 
vật lý. Tư liệu được trình bày dưới dạy word. Với phần tư liệu này, các giáo viên có thể 
dùng làm tài liệu tham khảo, soạn những phần mở bài theo ý mình hoặc có thể sử dụng 
trong các hoạt động của bài học. 
  Về kết quả thu được 
 - Việc gây hứng thú khi mở đầu bài giảng giáo án điện tử đã thu được những kết 
quả rất khả quan. Ngoài ra, hầu hết các học sinh được học với phần mở đầu bài giảng này 
đều tỏ ra chú ý, thích thú khi vào bài mới. 
 - Việc sử dụng mở đầu bài giảng bằng giáo án điện tử là rất cần thiết nhằm mục 
đích tạo hứng thú học tập cho học sinh. Việc sử dụng chúng còn phụ thuộc vào các điều 
kiện cụ thể nhất định như trình độ học sinh, điều kiện cơ sở vật chất Vì vậy đòi hỏi 
mỗi giáo viên phải biết vận dụng sáng tạo để nâng cao chất lượng dạy học. 
2. Đề xuất 
 - Sử dụng những thông tin, tư liệu thu thập được để tổ chức những buổi đố vui vật 
lý, câu lạc bộ vật lý,  
 - Học sinh có thể vận dụng đề tài để ôn tập và luyện thi THPT Quốc Gia, tuyển 
sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp 
 - Đề tài được sự ủng hộ và được phổ biến rộng rãi cho giáo viên trong tổ tham 
khảo, đúc kết kinh nghiệm thêm cho bản thân giáo viên và nhận được sự góp ý của đồng 
nghiệp trong tổ. Qua đó công việc giảng dạy được bồi dưỡng thêm kiến thức chuyên môn 
và đổi mới phương pháp giảng dạy. 
 - Do điều kiện thời gian nên đề tài mới tập trung khai thác ở một số điểm chính, 
minh họa dưới dạng tổng quát, có những vấn đề khác giáo viên chưa có điều kiện phân 
tích sâu hơn. 
 - Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu nhà trường, các thầy cô trong 
tổ bộ môn vật lý đã tạo điều kiện rất nhiều cho tôi thực hiện đề tài này. 
Xin trân trọng cảm ơn. 
 TP.HCM, ngày 06 tháng 2 năm 2017 
 Người viết đề tài 
 Huỳnh Minh Hải 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_tao_hung_thu_khi_mo_dau_bai_giang_dien.pdf
Sáng Kiến Liên Quan