Sáng kiến kinh nghiệm Sưu tầm và viết lời mới cho một số bài đồng dao phục vụ công tác giáo dục trẻ mầm non
Trong thời đại mà thông tin bùng nổ và kỹ thuật điện tử xâm nhập đến từng mái trường, từng gia đình, đến từng trẻ em, làm sao chúng ta có thể yên tâm với con em mình khi từng ngày, từng giờ những mặt trái của thời đại công nghệ đang ảnh hưởng không mấy tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Bởi vậy, ngày nay các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ luôn băn khoăn đi tìm một phương pháp giáo dục trẻ em thực sự có hiệu quả.
Nhưng có lẽ hầu như chúng ta đã lãng quên một phương pháp giáo dục đầy hiệu quả mà chúng ta sẵn có: đó là kho tàng đồng dao và trò chơi trẻ em. Riêng về lĩnh vực giáo dục, kho tàng này cung cấp nội dung và phương pháp giáo dục tương đối rõ ràng và đầy đủ hơn cả. Những trò chơi dân gian đã đến với trẻ thơ một cách nhẹ nhàng theo kiểu “vừa học, vừa chơi”, qua những bài đồng dao theo cách nói vần, đồng dao đã làm tốt chức năng biểu đạt ý, giáo dục nhận thức, bồi dưỡng tình cảm cho trẻ.
Nhận thức được vấn đề này, trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non, bên cạnh việc ứng dụng công nghệ dạy học hiện đại tôi luôn tìm tòi, học hỏi và sáng tạo các hình thức, phương pháp giáo dục trẻ dựa trên những tư liệu giáo dục sẵn có trong kho tàng văn hoá dân tộc.
gắn với công việc của trẻ em và gắn với trò chơi của trẻ em. Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền và bị lãng quên. Việc sáng tác đồng dao được thực hiện trong một quá trình lâu dài bao gồm: sáng tạo - lưu truyền – sử dụng - điều chỉnh. ở đây chủ thể sáng tạo, sử dụng, lưu truyền và tái tạo các bài đồng dao này chủ yếu là trẻ em. Vui chơi là nhu cầu cần thiết đối với sự phát triển của trẻ em. Các trò chơi dân gian của trẻ phần lớn đều gắn với các bài đồng dao, có tác dụng bổ sung, làm rõ chức năng thẩm mỹ của đồng dao. Ngược lại đồng dao có vai trò rất lớn trong trò chơi trẻ em, bởi thiếu nó thì trò chơi sẽ tẻ nhạt, vô vị. Lời đồng dao đóng góp quan trọng đến thực hiện chức năng giáo dục và chức năng vui chơi của trẻ, với những nhiệm vụ rất đa dạng: giáo dục nhận thức, đức, trí, thể, mỹ; luyện phát âm, cung cấp vốn từ ngữ; bồi dưỡng tình cảm; giữ nhịp cho thao tác chơi... Vì vậy, việc sáng tạo các trò chơi mới cho trẻ cần quan tâm đến đồng dao. Đây chính là cơ sở để tôi tìm đến với các bài đồng dao, nghiên cứu, viết lời mới, sưu tầm và sáng tạo trò chơi mới để vừa đưa đồng dao đến với trẻ, vừa thực hiện được mục tiêu giáo dục. 4.2. Cơ sở thực tiễn: Các bài đồng dao được sưu tầm, đặt lời mới cùng với các trò chơi đi kèm theo nó đều được lựa chọn dựa trên cở sở khảo sát việc tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với các bài đồng dao và tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ ở trường mầm non Sao Mai. Thực tế cho thấy: Giáo viên trường mầm non Sao Mai đã sử dụng nhiều bài đồng dao trong khi tổ chức các hoạt động học tập và vui chơi cho trẻ. Nhưng do không có nguồn tài liệu phong phú nên các bài giáo viên đã sử dụng chủ yếu được lấy từ một số tài liệu chuyên môn và từ kinh nghiệm của giáo viên. Vì số lượng bài ít nên sử dụng lặp đi lặp lại gây nhàm chán cho trẻ. Hiện nay, trường mầm non Sao Mai đang thực hiện chương trình giáo dục mầm non theo hướng đổi mới. Vì vậy, chương trình giáo dục trẻ được thực hiện theo các chủ đề, chủ điểm. Có những bài đồng dao có nhịp điệu, trò chơi hấp dẫn trẻ thì nội dung lại không phù hợp với chủ điểm giáo dục mà giáo viên đang thực hiện. Nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với các bài đồng dao. Để khắc phục những tồn tại trên, ngoài việc sưu tầm thêm các bài đồng dao cổ, qua sáng kiến này tôi muốn viết lời mới, sưu tầm và sáng tạo trò chơi phù hợp cho một số bài đồng dao, với mong muốn sẽ cung cấp thêm cho các đồng nghiệp một tài liệu tham khảo về vấn đề này. nội dung sáng kiến kinh nghiệm Chương I. Sưu tầm, viết lời mới cho một số bài đồng dao và cách chơi các trò chơi tương ứng với các bài đồng dao đó. Bài 1: Dung dăng dung dẻ Lời 1: Dung dăng dung dẻ Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đến cổng nhà trời Tìm nơi gió mát Cùng hát véo von Mời ông trăng tròn Xuống chơi với bé Xì xà xì xụp Ngồi thụp xuống đây. (Sưu tầm) Lời 2: Dung dăng dung dẻ Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đến hỏi ông trời Xin vài cái bánh Gặp xe thì tránh Đội mũ trên đầu Đi chậm đi mau Ta đi cùng nhau Lâu lâu lại ngồi. (Lời mới) Lời 3: Dung dăng dung dẻ Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đến chỗ mát trời Chớ nên bỏ phí Thở làn không khí Vừa sạch vừa trong Em thấy mát lòng Thân càng mạnh mẽ Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đến chỗ đông người Nếu không nhìn kỹ Người ta vô ý Chân dẫm phải chân Đau đớn vô cùng Còn chi vui vẻ Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Những buổi đẹp trời Tìm nơi râm mát Cùng nhau ca hát Cất tiếng cười vang Nhảy múa nhịp nhàng Cho lòng tươi trẻ. (Lời mới) Mục đích giáo dục: Phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ và củng cố vận động đi cho trẻ. Dạy trẻ biết tự bảo vệ bản thân khi đi ra đường. Giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên. Thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ nhà trẻ (dưới 3 tuổi), trẻ mẫu gíáo bé (3-4 tuổi), trẻ mẫu gíáo nhỡ (4-5 tuổi). Cách chơi: Các cháu cùng nắm tay nhau, vừa đi vừa đung đưa theo nhịp bài đồng dao. Đến câu “ngồi thụp xuống đây” hay “lâu lâu lại ngồi” thì tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi lại đứng dậy vừa đi vừa đọc tiếp bài đồng dao (hình 1,2). Hình 1,2: Cô và cháu cùng chơi “dung dăng dung dẻ”. Bài 2: Chi chi chành chành Lời 1: Chi chi chành chành Chi chi chành chành Nhớ rút cho nhanh Tay xoè ngón đặt Miệng đặt mắt nhìn Đi trốn đi tìm ú tim oà ập! (Lời mới) Lời 2: Chi chi chành chành Chi chi chành chành Chim oanh học nói Khỉ già múa rối Chó sói đuổi bò Rùa nhảy khỏi hồ Bắt cò ăn thịt Sáo nằm gốc mít Khóc mẹ hu hu! (Lời mới) ơ Mục đích giáo dục: Luyện tập cho trẻ có tính phản xạ, cử động nhanh nhẹn. Cung cấp thêm kiến thức về thế giới động vật cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ nhà trẻ (dưới 3 tuổi), trẻ mẫu gíáo bé (3-4 tuổi). Cách chơi: Khoảng 3-4 trẻ một nhóm. Một trẻ làm “cái” xoè bàn tay ra. Các trẻ khác đặt ngón tay trỏ vào lòng bàn tay trẻ làm “cái”. Trẻ làm “cái” vừa gõ ngón tay vừa đọc theo nhịp bài đồng dao (hình 3,4). Đến câu cuối cùng, trẻ làm “cái” nắm tay vào để bắt các ngón tay của các bạn. Các bạn phải rút nhanh ngón tảya khỏi bàn tay của trẻ làm “cái”. Ai bị “cái” bắt ngón tay thì xoè bàn tay ra, đọc theo nhịp bài đồng dao trên cho các bạn chơi tiếp. Hình 3,4: Bé chơi “chi chi chành chành” Bài 3: Đi cầu đi quán Đi cầu đi quán Đi bán lợn con Đi mua cái xoong Đem về đun nấu Mua quả dưa hấu Về biếu ông bà Mua một đàn gà Về cho ăn thóc Mua lược chải tóc Mua cặp cài đầu Đi mau, về mau Kẻo trời sắp tối! (Sưu tầm) Mục đích giáo dục: Củng cố các vận động đi bằng gót chân, đi bằng mũi bàn chân cho trẻ. Rèn luyện khả năng phản ứng nhanh theo hiệu lệnh cho trẻ. Cung cấp thêm kiến thức trong chủ điểm gia đình cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: trẻ mẫu gíáo bé (3-4 tuổi), trẻ mẫu gíáo nhỡ (4-5 tuổi), trẻ mẫu gíáo lớn (5-6 tuổi). Hình 5: bé chơi “đi cầu đi quán” Cách chơi: Trẻ xếp thành hàng dọc, bạn sau để tay lên vai bạn trước (hoặc đi tự do theo hàng) làm tàu hoả (cứ thế nối tiếp nhau). Bạn dẫn đầu (hoặc cô giáo) vừa đi vừa hô lệnh: “Tàu lên dốc”: khi nghe hiệu lệnh“tàu lên dốc”, tất cả đi bàn chân nhón lên, đi bằng mũi bàn chân. “Tàu xuống dốc”: khi nghe hiệu lệnh“tàu lên dốc”, tất cả đi bằng gót chân. Vừa đi trẻ, những trẻ làm toa tàu phía sau vừa hát bài đồng dao (Hình 5). Với cách chơi tượng tự, chúng ta có thể thay đổi lời bài hát như sau: Nào mời anh lên tàu lửa chúng mình đi! Đi đi khắp nơi, mà không thích sao? Nào mời anh lên tàu lửa chúng mình đi! Đi đi khắp nơi, mà không tốn tiền Anh có đi không? Tôi đi! Nào mời anh lên tàu lửa chúng mình đi! (Sưu tầm) *********** Bài 4: Bịt mắt bắt dê Một bầy trẻ nhỏ Bịt mắt bắt dê Dê vấp bờ hè Ngã kềnh bốn vó Mọi người chười rộ Cố đuổi vòng quanh Dê chạy thật nhanh Túm ngay một chú (Lời mới) Mục đích giáo dục: Củng cố vận đi, vận động bò, phát triển khả năng định hướng trong không gian cho trẻ. Phát triển các giác quan và khả năng phán đoán cho trẻ. Cung cấp thêm kiến thức về thế giới động vật cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: trẻ mẫu gíáo nhỡ (4-5 tuổi), trẻ mẫu gíáo lớn (5-6 tuổi).. Cách chơi: Cách 1: Cô kẻ một vòng tròn trên sân (hoặc trong nhà). Mời hai trẻ lên chơi “oẳn tù tì”, người thua cuộc sẽ phải bịt mắt đi tìm dê, người thắng làm dê. Các bạn đứng ngoài cổ vũ. Người bị bịt mắt sẽ đi (hoặc bò) theo tiếng hát đồng dao của người làm dê để bắt bạn. Cả hai không được chạy (hoặc bò) ra khỏi vòng tròn. Nếu bắt được “dê” là thắng cuộc, không bắt được là thua cuộc. Cách 1: Mời một trẻ lên bịt mắt đi tìm dê, các bạn đứng thành vòng tròn làm đàn dê. Người bị bịt mắt sẽ đi theo tiếng hát đồng dao của các bạn để tìm bắt một bạn. Bắt được rồi trẻ bị bịt mắt sẽ phải sờ và đoán xem đã bắt được bạn nào. Nếu bắt được “dê” và đoán đúng là thắng cuộc, không bắt được hoặc đoán sai là thua cuộc (Hình 5, 6,7). Hình 5, 6,7: trò chơi “Bịt mắt bắt dê” Bài 5: trồng đậu, trồng cà Trồng đậu trồng cà Hoe hoe hoa khế Khế ngọt khế chua Cột đình cột chùa Hai tay ôm cột Cây cam cây quýt Cây mít cây hồng Cành đa cành nhãn Có chân thì rụt (Lời mới) Mục đích giáo dục: Cho trẻ làm quen với âm điệu du dương của đồng dao, nhằm giúp cho trẻ sau này biết yêu mếm ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam. Cung cấp thêm kiến thức về thế giới thực vật cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ nhà trẻ (dưới 3 tuổi), trẻ mẫu gíáo bé (3-4 tuổi). Cách chơi: Cho trẻ ngồi hàng ngang, duỗi chân ra, người điều khiển trò chơi đọc bài đồng dao. Mỗi từ đập nhẹ vào một chân, đập từ đầu theo thứ tự đến cuối cùng, rồi lại quay ngược lại cho đến chữ “rụt”, chân nào chúng từ rụt thì co lại. Cứ thế cho đến khi các chân co lại hết, lại bắt đầu từ đầu ( Hình 8,9) . Hình 8,9: Mình cùng chơi “ Trồng đậu, trồng cà” nhé! Bài 6: Nu na nu nống Lời 1: Nu na nu nống Nu na nu nống Cái cóng nằm trong Cái ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Phật ngồi phật khóc Con cóc nhảy ra Con gà ú ụ Nhà mụ thổi xôi Nhà tôi nấu chè Te he chân rụt. (Sưu tầm) Lời 2: Nu na nu nống Nu na nu nống Một hồ nước trong Sao không rửa chân Cho trắng cho xinh Đi thi chân đẹp Chân ai sạch sẽ Gót đỏ hồng hào Không bẩn tí nào Được vào đánh trống. (Lời mới) ơ Lời 3: Nu na nu nống Thằng công cái cạc Đá xỉa đá xoi Đá đầu con voi Đá lên đá xuống Đá ruộng bồ câu Đá râu con mèo Đá ra đường cái Gặp gái đi đường Có phường chống quân Có chân thì rút! (Sưu tầm) Mục đích giáo dục: Cho trẻ làm quen với âm điệu du dương của đồng dao, nhằm giúp cho trẻ sau này biết yêu mến ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ nhà trẻ (dưới 3 tuổi), trẻ mẫu gíáo bé (3-4 tuổi). Cách chơi: Cho trẻ chơi tương tự như chơi trò chơi “trồng đậu, trồng cà”. Bài 7: Câu ếch ếch ở dưới ao Vừa ngớt mưa rào Nhảy ra bì bọp ếch kêu ộp ộp! ếch kêu oạp oạp! Thấy bạc đi câu Rủ nhau chốn mau ếch kêu ộp ộp! ếch kêu oạp oạp! (Lời mới) Mục đích giáo dục: Củng cố vận động bật nhảy cho trẻ. Cung cấp thêm kiến thức về thế giới động vật cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ nhà trẻ (dưới 3 tuổi), trẻ mẫu gíáo bé (3-4 tuổi), trẻ mẫu gíáo nhỡ (4-5 tuổi), trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi). Hình 10,11: Tớ với cậu cùng “câu ếch” nhé! Cách chơi: Vẽ một vòng tròn lớn ở giữa sân (Hình 10,11). Một trẻ làm người đi câu, người đi câu cầm một sợi dây dài chừng 1m, đầu sợi dây buộc một miếng giấy gấp nhỏ lại cho hơi nặng để có thể hất chúng ếch ở xa. Tất cả các bạn còn lại đứng trong vòng tròn làm ếch. Khi người điều khiển phát lệnh và bắt nhịp thì các chú ếch bắt đầu hát bài đồng dao. Khi hát làm động tác như ếch đang nhảy, tay chống nạnh, chân chụm lại, hơi nhún xuống nhảy lung tung như con ếch. Nếu thấy người đi câu còn ở xa thì các chú ếch nhảy lên bờ (ra khỏi vòng tròn) để rong chơi. Người đi câu đuổi theo, nếu quăng giây chúng vào chú ếch nào thì chú ếch đó phải thay làm người đi câu. Nếu lâu người đi câu không bắt được chú ếch nào thì người đi câu phải nhảy ếch một vòng quanh ao. *********** Bài 8: Tập tầm vông Lời 1: Tập tầm vông Tập tầm vông Tay đàng đông Tay đàng tây Tay nào mây? Tay nào gió? Tập tầm vó Tay nào có? Tay nào không? Tay nào phồng? Tay nào đẹp? (Lời mới) Lời 2: Tập tầm vông Tập tầm vông Chị có chồng, Em ở vá. Chị ăn cá, Em mút xương. Chị ăn kẹo, Em ăn cốm. Chị ở lò gốm, Em ở Bến Thành. Chị trồng hành, Em trồng hẹ. Chị nuôi mẹ, Em nuôi cha. (Sưu tầm) Hình 11,12: Bé chơi “ tập tầm vông” Mục đích giáo dục: Phát triển cơ tay và rèn luyện sự nhanh nhẹn của đôi bàn tay trẻ. Giáo dục tình cảm gia đình cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ nhà trẻ (dưới 3 tuổi), trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi), trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi), trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi). Cách chơi: Đối với những trẻ bé, trẻ vừa hát vừa đưa tay theo nhịp bài đồng dao. Cô giáo có thể cùng trẻ sáng tạo nhiều hình thức vận động khác như: làm nhiều kiểu vận động tay khác nhau, vận động chân, lắc đầu...(Hình 11,12) Đối với những trẻ lớn, cô cho hai trẻ ngồi đối mặt nhau, vừa hát bài đồng dao vừa theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau: hoặc đạp thẳng, hoặc đập chéo, hoặc một cao một hạ thấp, hoặc kết hợp nhiều cách khác nhau... *********** Bài 9: thả đỉa ba ba Lời 1: Thả đỉa ba ba Thả đỉa ba ba Con đỉa đeo bà Con gà cục tác Mỏ nhát cầm chầu Con mèo cầm lái Con nhái chạy buồm Con tôm tát nước Vục nước rỡn trăng. (Sưu tầm) Lời 2: Thả đỉa ba ba Thả đỉa ba ba Làm ngỗng, làm gà Làm voi, làm gấu Làm anh cá sấu Làm chị ễnh ương Làm bác linh dương Cùng chạy bốn phương. (Lời mới) Mục đích giáo dục: Củng cố vận động chạy, củng cố kỹ năng ghép tương ứng 1-1 cho trẻ. Cung cấp thêm kiến thức về thế giới động vật cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi), trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi). Hình 11,12,13: Bé chơi “ thả đỉa ba ba” Cách chơi: Vẽ hai đường thẳng song song dài 2m, rộng 3m giả làm con sông. Số trẻ chơi có thể 10 – 12 trẻ đứng thành vòng tròn, chọn một trẻ thuộc lời ca đứng ở giữa vòng tròn, vừa đi vừa đọc lời ca, cứ mỗi tiếng lại đập nhẹ tay vào vai một bạn. Tiếng cuối cùng rơi vào ai người ấy sẽ làm “đỉa”, Nếu cần 2- 3 trẻ làm “đỉa” cách chọn như trên (Hình 11,12,13). Khi chơi các con “đỉa” đứng ở giữa sông. Các trẻ khác đứng ở ngoài vạch kẻ (bờ sông), tìm cách lội qua sông, sao cho các con “đỉa” không bắt được mình. Khi qua sông đọc: Sang sông - Về sông - Trông cây - Ăn quả - Nhả hột. Khi đọc đến câu cuối cùng trẻ làm “đỉa” bắt đầu đuổi bắt những người qua sông, nhưng chỉ được bắt những người qua sông chưa tới bờ. Những người qua sông phải tìm cách chạy thật nhanh lên bờ sao cho “đỉa” không bắt được. Ai bị “đỉa” bắt phải đứng ra ngoài cuộc một lần chơi. Bài 10: kéo cưa lừa xẻ Lời 1: Kéo cưa lừa xẻ Kéo cưa lừa xẻ Bé ngoan bé khoẻ Nhớ chăm học hành Học nhanh học giỏi Sẽ giành điểm nười. (Lời mới) Lời 2: Cút ca cút kít Cút ca cút kít Làm ít ăn nhiều Nằm đâu ngủ đấy Nó lấy mất cưa Lấy gì mà kéo!!! (Sưu tầm) Lời 3: Kéo cưa lừa kít Kéo cưa lừa kít Làm ít ăn nhiều Làm đâu bỏ đấy Trộm lấy mất cưa Lấy gì mà kéo. (Sưu tầm) Mục đích giáo dục: Cho trẻ làm quen với âm điệu du dương của đồng dao. Giáo dục trẻ đức tính chăm chỉ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: trẻ mẫu gíáo bé (3-4 tuổi), trẻ mẫu gíáo nhỡ (4-5 tuổi). Hình 14,15: Bé chơi “ kéo cưa lừa xẻ” Cách chơi: Hai trẻ ngồi đối diện nhau, cả hai duỗi chân ra và đạp hai bàn chân vào nhau, hai tay nắm lấy nhau, cùng chau vừa đẩy qua đẩy lại vừa đọc bài đồng dao. Bài 11: rồng rắn lên mây Rồng rắn đi chơi Vừa hát vừa cười Đến thăm thầy thuốc Đếm chân mà bước Thong thả mà đi Tay chống chân quỳ Hỏi cho thật lớn Thầy thuốc có nhà không? (Lời mới) Mục đích giáo dục: Củng cố vận động chạyvà rèn luyện khả năng định hướng trong không gian cho trẻ. Luyện tập đếm trong phạm vi 10 cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ và thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ. Đối tượng chơi: Trẻ mẫu gíáo nhỡ (4-5 tuổi), trẻ mẫu gíáo lớn (5-6 tuổi). Hình 11, 12, 13: Nào mình cùng “ rồng rắn lên mây” . Cách chơi: Một trẻ làm thầy thuốc, đứng hoặc ngồi một chỗ. Các trẻ khác túm đuôi áo nhau thành rồng rắn. Rồng rắn đi lượn vòng vèo vừa đi vừa hát bài đồng dao. Đến câu cuối cùng thì dừng lại trước mặt “thầy thuốc”. Người đóng vai “thầy thuốc” trả lời: “Thầy thuốc đi chơi!” (hay di chợ, đi vắng). Đoàn người lại đi và hát tiếp cho đến khi thầy thuốc trả lời: “có”. “Rồng rắn” và“thầy thuốc” đối thoại với nhau: Thầy thuốc: Mẹ con rồng rắn đi đâu? Rồng rắn: Rồng rắn đi lấy thuốc để chữa bệnh cho con. Thầy thuốc: Con lên mấy? Rồng rắn: Con lên một. Thầy thuốc: Thuốc chẳng ngon. Rồng rắn: Con lên hai. Thầy thuốc: Thuốc chẳng ngon. Cứ thế cho đến khi “Rồng rắn” trả lời: Rồng rắn: con lên mười Thầy thuốc: Thuốc ngon vậy. Tiếp theo thì thầy thuốc đòi hỏi Thầy thuốc: Xin khúc đầu Rồng rắn: Cùng xương cùng xẩu Thầy thuốc: Xin khúc giữa Rồng rắn: Cùng máu cùng me. Thầy thuốc: Xin khúc đuôi Rồng rắn: Tha hồ thầy đuổi. “Thầy thuốc” đuổi bắt “rồng rắn”. Trẻ đứng đầu dang tay cản “thầy thuốc”. “Thầy thuốc” tìm nọi cách để bắt được “khúc đuôi” (trẻ cuối cùng). Nếu “thầy thuốc” bắt được “khúc đuôi” hay “rồng rắn” bị đứt khúc hay bị ngã thì cũng thua. Chương II. Hiệu quả cuả việc tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ thông qua các bài đồng dao. Tôi tiến hành tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với các bài đồng dao và chơi các trò chơi dân gian trong 6 tháng tại lớp C1 (mẫu giáo lớn) và kết quả đạt được như sau: Bảng kết quả khảo sát hứng thú của trẻ Chỉ tiêu Thực trạng Thử nghiệm N % N % Số lượng trẻ N = 40 1. Trẻ chú ý vào nội dung cô hướng dẫn. 23 58 40 100 2. Trẻ hứng thú và tích cực tham gia vào các hoạt động. 25 63 38 95 3. Trẻ nắm được nội dung và thuộc các bài đồng dao. 30 75 40 100 4. Trẻ nắm được kỹ năng chơi các trò chơi dân gian. 28 70 37 93 * Nhận xét: Kết quả trên cho thấy, các bài đồng dao đã gây được hứng thú, thu hút trẻ vào các hoạt động, trẻ háo hức được tham gia vào các trò chơi dân gian mà cô giáo tổ chức. Trẻ yêu thích các bài đồng dao biểu hiện là trẻ tự đọc đồng dao cho nhau nghe. Trẻ tự tổ chức chơi các trò chơi dân gian và đọc các bài đồng dao trong các giờ chơi tự do mà không cần giáo viên gợi ý, hay trực tiếp hướng dẫn. Như vậy, kết quả thực nghiệm của tôi thành công và tạo thêm cảm hứng cho tôi tiếp tục sưu tầm và viết thêm lời mới cho các bài đồng dao cũng như sưu tầm và sáng tạo thêm các trò chơi dân gian làm tư liệu phục vụ công tác chăm sóc – giáo dục trẻ ngày một tốt hơn. Biểu đồ so sánh kết quả thực nghiệm với thực trạng Kết luận và kiến nghị I. Kết luận: Việc sưu tầm, viết lời mới cho các bài đồng dao là rất cần thiết bởi các lý do sau: Các bài đồng dao được sưu tầm và viết lời mới mang nội dung phù hợp với các chủ đề, chủ điểm giáo dục mà vẫn gần gũi với trẻ, vẫn giữ được nhịp điệu truyền thống của đồng dao cổ. Các bài đồng dao được sưu tầm, viết lời mới đều có kèm theo các trò chơi dân gian rất hấp dẫn và thu hút trẻ, vì vậy trẻ hứng thú và tham gia các hoạt động tích cực hơn. Khi tham gia vào các hoạt động làm quen với các bài đồng dao trẻ không những được phát triển ngôn ngữ, mà còn được củng cố các vận động, rèn luyện các tố chất thể lực cũng như mở rộng thêm vốn kiến thức về môi trường xung quanh. Đặc biệt cho trẻ làm quen với các bài đồng dao và các trò chơi dân gian còn có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt và giáo dục những truyền thống văn hoá dân tộc cho trẻ. II. Kiến nghị: Qua việc nghiên cứu sưu tầm và viết lời mới cho một số bài đồng dao phục vụ công tác giáo dục trẻ, tôi có một số ý kiến đề xuất sau: - Cho phép được phổ biến các bài đồng dao được sưu tầm và viết lời mới cùng những trò chơi dân gian đi kèm các bài đồng dao trong phạm vi trường trong những năm học sau. - Cần tạo điều kiện cho giáo viên trong trường được đi kiến tập, thăm quan, dự các lớp tập huấn để giáo viên có cơ hội học hỏi thêm kinh nghiệm tổ chức các hoạt động học tập và vui chơi cho trẻ. - Tăng cường đầu tư kinh phí, thời gian, đồng thời hướng dẫn, động viên, khuyến khích giáo viên tích cực nghiên cứu, sáng tạo thêm nhiều học liệu mới, nhiều hoạt động mới, hấp dẫn trẻ và có hiệu quả để phục vụ cho công tác giáo dục trẻ. ************** Trên đây là một số bài đồng dao mà tôi sưu tầm, viết lời mới cùng các trò chơi dân gian mà tôi đã nghiên cứu và đề xuất. Tôi mạnh dạn nêu ra để đồng nghiệp và các bậc phụ huynh tham khảo. Tuy vậy, do điều kiện có hạn nên đề tài còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bậc phụ huynh. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 1tháng 6 năm 2009. Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang.
File đính kèm:
- SKKN Dong dao.doc