Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học các lớp 1+2+3
* Về đồ dùng dạy học :
Khi nói đến việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học, ngời giáo viên nghĩ ngay đến các vật dụng trực quan cụ thể, các vật t, hoá chất, mẫu vật, mô hình, tranh ảnh. Các tài liệu, ấn phẩm, sách giáo khoa, vở bài tập, phiếu bài học
Trong những năm qua, các trờng tiểu học đã đợc cung cấp khá nhiều trang thiết bị và đồ dùng dạy học, có những thùng đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li để dạy theo lớp nhng thống kê theo danh mục thì số lợng vẫn cha đáp ứng đợc đầy đủ.
Ví dụ : Ở phân môn luyện từ và câu ( lớp 2, 3) hay từ ngữ ( lớp 4, 5), đồ dùng dạy học mà Công ty sách và thiết bị trờng học sản xuất , cung cấp cho các trờng hiện nay chủ yếu là các loại tranh ảnh, song một số tranh ảnh do sản xuất chung cho tất cả các trờng tiểu học trong cả nớc nên so với kiến thức hiểu biết của học sinh từng vùng có lúc thừa loại này nhng lại thiếu loại khác.
* Về giáo viên :
Từ thực tế thiết bị đồ dùng dạy học còn thiếu, bản thân giáo viên còn ngại sử dụng, cán bộ phụ trách thiết bị ở trờng lại kiêm nhiệm những việc khác nên việc mợn - trả gặp nhiều khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giáo viên lên lớp sử dụng đồ dùng thiếu thờng xuyên .
Trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học, một số giáo viên còn lúng túng. Chẳng hạn khi dạy giải nghĩa từ họ nghĩ rằng cứ đa ra tranh ảnh, vật thật cho học sinh quan sát là đảm bảo điều kiện để giải nghĩa từ. Trên thực tế, nhiều tranh ảnh, vật thật cha cung cấp hết nghĩa của từ cần giảng mà phải có sự hỗ trợ bằng lời nói của giáo viên.
Sử dụng có hiệu quả Đồ dùng dạy học các lớp 1, 2 , 3 ************************ I- Đặt vấn đề : 1- Cơ sở lý luận : Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ nhanh, thông tin khoa học ngày càng nhiều song thời gian dành cho mỗi tiết học trong trờng phổ thông không thay đổi. Để theo kịp sự phát triển của xã hội và cung cấp cho học sinh những kiến thức mới nhất, đầy đủ nhất trong một thời gian có hạn, việc đổi mới phơng pháp dạy học luôn là vấn đề bức xúc đợc nhiều ngời quan tâm. Thực tế cho thấy việc dạy học nói chung và dạy học ở tiểu học nói riêng đã có sự đổi mới nhiều về phơng pháp. Những phơng pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự t duy của học sinh đợc đặc biệt chú ý. Song để cho giờ học thực sự đổi mới, việc sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học là hết sức cần thiết. Thiết bị đồ dùng dạy học là những phơng tiện vật chất giúp cho giáo viên và học sinh tổ chức hợp lý có hiệu quả, quá trình giáo dục, giáo dỡng đối với các môn học trong nhà trờng nhằm thực hiện chơng trình dạy học. Trong quá trình đổi mới phơng pháp dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học sinh thực hiện mục tiêu dạy học . Hơn nữa thiết bị đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động mọi năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn, nâng cao khả năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành. Thiết bị đồ dùng dạy học là vật chất hữu hình tởng nh là vô tri vô giác nhng dới sự điều khiển của ngời giáo viên, thiết bị đồ dùng dạy học thể hiện khả năng s phạm của nó : Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn làm cho giờ học sinh động, hiệu quả hơn . Nếu việc "Dạy chay, dạy suông" làm cho ngời học thụ động không phát huy đợc tính tích cực, chủ động sáng tạo thì sự hỗ trợ đắc lực của thiết bị sẽ là Trong những năm qua, các trờng tiểu học đã đợc cung cấp khá nhiều trang thiết bị và đồ dùng dạy học, có những thùng đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li để dạy theo lớp nhng thống kê theo danh mục thì số lợng vẫn cha đáp ứng đợc đầy đủ. Ví dụ : Ở phân môn luyện từ và câu ( lớp 2, 3) hay từ ngữ ( lớp 4, 5), đồ dùng dạy học mà Công ty sách và thiết bị trờng học sản xuất , cung cấp cho các trờng hiện nay chủ yếu là các loại tranh ảnh, song một số tranh ảnh do sản xuất chung cho tất cả các trờng tiểu học trong cả nớc nên so với kiến thức hiểu biết của học sinh từng vùng có lúc thừa loại này nhng lại thiếu loại khác. * Về giáo viên : Từ thực tế thiết bị đồ dùng dạy học còn thiếu, bản thân giáo viên còn ngại sử dụng, cán bộ phụ trách thiết bị ở trờng lại kiêm nhiệm những việc khác nên việc mợn - trả gặp nhiều khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giáo viên lên lớp sử dụng đồ dùng thiếu thờng xuyên . Trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học, một số giáo viên còn lúng túng. Chẳng hạn khi dạy giải nghĩa từ họ nghĩ rằng cứ đa ra tranh ảnh, vật thật cho học sinh quan sát là đảm bảo điều kiện để giải nghĩa từ. Trên thực tế, nhiều tranh ảnh, vật thật cha cung cấp hết nghĩa của từ cần giảng mà phải có sự hỗ trợ bằng lời nói của giáo viên. Mặt khác tuy rằng 100 % giáo viên đều nhận thức đúng ý nghĩa, tác dụng to lớn của đồ dùng dạy học trong quá trình hình thành kiến thức cho học sinh, nhiều giáo viên đã biết vận dụng đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức độ các đồ dùng dạy học. Song cũng có nhiều giáo viên vẫn cha hiểu rõ cấu tạo của bộ đồ dùng hàng khối, lớp mà mình phụ trách , cha biết rõ số lợng đồ dùng trong bộ đồ dùng dạy học, cha nhớ phạm vi sử dụng của các đồ dùng dạy học cho các tiết dạy. Đặc biệt những thao tác kỹ thuật trong khi sử dụng đồ dùng dạy học theo những dụng ý s phạm còn ít đợc giáo viên chú ý. Ví dụ: Giáo viên dạy toán lớp 2 khi hình thành bảng nhân 2 cho học sinh đã làm nh sau : Trong khuôn khổ của bài viết, với phạm vi trách nhiệm của một giáo viên đứng lớp tôi xin trình bày một số nội dung sau : 1-Về phía nhà trờng : Ngay từ đầu các năm học, nhà trờng đã bố trí cán bộ phụ trách th viện, thiết bị, có thời gian làm việc phù hợp, tạo điều kiện cho giáo viên mợn và trả. Riêng các va-li đồ dùng dạy học theo lớp, nhà trờng kiểm kê theo danh mục, giải quyết cho giáo viên mợn nguyên cả bộ ngay từ đầu năm học và cuối năm học trả lại . Có nh vậy giáo viên mới có thể chủ động trong việc sử dụng cũng nh có kế hoạch tự làm các loại thiết bị và đồ dùng dạy học còn thiếu. Để giúp cho việc bảo quản và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học. Chúng tôi đã tham mu với Hội cha mẹ học sinh để cha mẹ học sinh đóng mỗi lớp 1 tủ sắt để bảo quản đồ dùng dạy học và đợc để ngay tại lớp học, rất thuận lợi cho giáo viên và học sinh khi sử dụng đồ dùng thiết bị . 2-Với bản thân giáo viên : Mỗi giáo viên phải nắm vững các danh mục đồ dùng dạy học đã đợc cung cấp trên cơ sở đó giáo viên hoặc tổ chuyên môn có thể sắp xếp theo từng chủ đề, đề tài. Để giải quyết một số thiết bị đồ dùng còn thiếu, giáo viên trong cùng một tổ phối hợp với nhau su tầm, tự làm thêm đồ dùng theo chủ đề, đề tài. Ví dụ : Khi dạy tự nhiên xã hội hoặc đạo đức, tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho dạy các môn này có nhiều trên báo chí, báo ảnh, bu ảnh, lịch tờ hoặc hoa quả, vật thật Giáo viên có thể lựa chọn để sử dụng làm phong phú thêm đồ dùng dạy học của mình. Tuy nhiên khi chọn tranh ảnh, vật thật giáo viên cũng phải chú ý đến tính điển hình, phản ánh trung thực và chính xác, đảm bảo tính khoa học, tính s phạm và tính mỹ thuật . 3 – Nghiên cứu sử dụng đồ dùng dạy học mới. Vấn đề đổi mới thiết bị đồ dùng dạy học đợc đặt ra đồng bộ với việc đổi mới chơng trình và sách giáo khoa các môn học. Chính vì vậy sau mỗi đợt tập - Chọn các loại vật liệu sẵn có ở địa phơng nh : Trái cây, hoa, gỗ, tre, rơm, đất Ví dụ : Khi dạy các bài trong môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên xã hội, môn Đạo đức, môn Nghệ thuật tôi hớng dẫn học sinh su tầm các loại tranh ảnh theo các chủ đề về quê hơng đất nớc, rừng, núi, biển, con ngời, con vật - Tổ chức cho các nhóm, tổ trong lớp thi đua trng bầy sản phẩm, tập hợp thành sản phẩm chung của cả lớp để sử dụng dạy học theo các chủ đề thích hợp, làm phong phú thêm nguồn thiết bị dạy học . + Làm các thanh hình chữ nhật ( Bằng gỗ, bìa), có các chấm tròn để học bảng nhân toán 2 . Qua quá trình học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, qua quá trình giảng dạy ở trên lớp, tôi đã tiến hành cải tiến một số đồ dùng dạy học, đem áp dụng và thấy có hiệu quả đó là các đồ dùng sau : Ví dụ 1: Dụng cụ trực quan gợi ý cách cộng qua 10 ( lớp 2) Để dạy học sinh lớp 2 biện pháp cộng qua 10, chẳng hạn bài "9 cộng với 1 số: 9 + 5 ". Ta thờng dùng cách :"Tách 1 ở số sau để cộng với 9 cho đủ 10 rồi cộng tiếp với phần còn lại ở số sau". 9 + 5 = 9 + 1 + 4 = 14. 1+4 10 Khi dạy giáo viên hay sử dụng đồ dùng trực quan nh sau : + Đặt 9 hình tròn màu trắng ở hàng trên. + Đặt thêm 5 hình tròn màu đen ở hàng dới. Sau đó đa một hình tròn màu đen lên hình trên để hàng trên có đủ 10 hình tròn. Lấy 10 hình tròn ở hàng trên cộng với 4 hình tròn còn lại ở hàng dới để có 14 hình tròn .( Hoặc sử dụng mô hình que tính nh SGK ). Cách sử dụng trực quan kiểu này, tuy giúp học sinh hiểu rõ biện pháp tính hơn song "Giáo viên thờng phải thông báo cho học sinh là trớc hết cần đa một hợp . Để làm phong phú hơn , sinh động hơn , hiệu quả hơn khi học sinh luyện tập thực hành , tôi đã dựa vào dạng bài đó để cải tiến đồ dùng dạy học nh sau: - Vật liệu gồm : Bảng nỉ , 1 miếng bìa cứng có kích thớc vừa bằng bảng nỉ , băng gắn , thanh cài . - Cách làm : khoét trên tấm bìa 2 hình chữ nhật dạng màn hình tivi cạnh nhau. Phía dới 2 hình chữ nhật khoét 3 ô vuông sao cho vừa gài đủ số và dấu phép tính trong bộ đồ dùng . Hai hình bên cạnh tơng ứng với hai hình chữ nhật to ở trên ( Hình vẽ ) 6 9 3 - Cách sử dụng : Gắn tấm bìa đã khoét ô vuông vào bảng nỉ có gắn thanh cài . ở từng hình chữ nhật cài các chấm tròn, bông hoa , con cá ... có số lợng mà tổng 2 hình chữ nhật nhỏ hơn 10, tuỳ theo bài học .ở 3 ô bên dới giáo viên cài sẵn các số tơng ứng. Học sinh sẽ đợc làm bài tập : Số ? Rõ ràng nhìn đồ dùng này học sinh biết đợc ô bên trái có 6 chấm tròn , ô bên phải có 3 chấm tròn , cả 2 ô có 9 chấm tròn . Sau khi học sinh nêu kết quả , giáo viên lật dấu ? ra thì kết quả đã có sẵn trong bảng cài để học sinh đối chiếu giống nh kiểu trong trò chơi :" Hãy chọn giá đúng " Đồ dùng này còn để dùng cho việc dạy dạng bài so sánh số, tính tổng... Tơng tự cải tiến thành đồ dùng dạy bài : Viết phép tính thích hợp ( Lớp 1 ) +Vật liệu gồm: Bảng nỉ, một miếng bìa có kích cỡ băng dính, thanh cài + Cách làm : -Khoét 1 hình chữ nhật ở miếng bìa nh màn hình ti vi cỡ 25 x 38 cm . -Khoét 5 ô vuông ở phía dới miếng bìa sao cho vừa gài đủ các số, dấu phép tính. - Phô tô các hình trong sách bài tập của học sinh . - Gắn miếng bìa đó vào bảng nỉ ( có thanh gài) . + Sách giáo khoa toán 1 đợc biên soạn theo tinh thần đổi mới, trong đó thể hiện rõ quá trình hình thành kiến thức, có định hớng về cách dạy cho giáo viên, sách in màu đẹp, có nhiều hình vẽ, trình bầy khoa học hấp dẫn . Sách trình bầy " mở" không thông báo tờng minh kiến thức bài học mà để học sinh suy nghĩ tìm tòi, phát hiện kiến thức, hệ thống bài tập đa dạng, gây hứng thú và phát huy đợc khả năng sáng tạo của học sinh. Sách giáo khoa toán 1 có ý nghĩa nh một đồ dùng dạy học , nếu hiểu đợc nội dung, mục đích, ý tởng giúp các em sử dụng hợp lý thì học sinh sẽ học toán tốt hơn. +Bộ đồ dùng học toán thực hành là 1 tiến bộ của thiết bị dạy học, là cơ sở vật chất cho đổi mới phơng pháp dạy học toán. Khi sử dụng đồ dùng học toán thực hành học sinh đợc hoạt động bằng tay với các vật thật : que tính dùng để hình thành biểu tợng về số có 2 chữ số và các phép tính trong phạm vi 100, bộ chữ số, dấu phép tính và dấu so sánh để thực hành so sánh số và tính toán trong giờ học toán tiện lợi . Học sinh lớp 1 nhờ có đồ dùng thực hành mà "Cái tay làm khôn cái đầu". Đồ dùng thực hành còn giúp giáo viên tổ chức học tập theo nhóm, theo cặp một cách thuận lợi đây là điểm quan trọng nhất với việc học toán của lớp 1. Mặc dù đã hiểu sâu sắc về bộ đồ dùng học toán của học sinh nhng thực tế 1 số giáo viên lớp 1 còn lúng túng khi hớng dẫn học sinh sử dụng bởi vì thời gian của một tiết học chỉ 35 - 40 phút. Học sinh lớp 1 những ngày đầu đi học chân tay còn vụng về, lóng ngóng cùng với sự lúng túng trong tổ chức hoạt động của giáo viên đã làm cho đa số tiết học bị quá giờ. Nhng tồn tại đó sẽ đợc khắc phục khi lớp học đi vào nề nếp.. Học sinh quen với hoạt động thực hành, giáo viên quen với tổ chức hoạt động học tập. + Bảng con : Là đồ dùng học tập truyền thống nhng tại thời điểm này nó vẫn còn có tác dụng tích cực . Nhờ bảng con học sinh đợc thực hành kỹ năng viết, làm tính, giáo viên có thể đánh giá việc nắm vững kiến thức, kỹ năng viết, kỹ năng tính của học sinh. Sử dụng bảng con làm thay đổi trạng thái học tập, khích lệ sự cố gắng của mỗi học sinh và tạo không khí thi đua học tập trong lớp.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_co_hieu_qua_do_dung_day_hoc_ca.doc