Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc

Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay thì giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu giáo dục của tất cả các quốc gia là đào tạo con người phát triển toàn diện. Tổ chức khoa học giáo dục thế giới UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Việc đưa mảng nghị luận văn học vào chương trình Ngữ văn bậc trung học hoàn toàn phù hợp với xu hướng giáo dục trên.

Nghị luận văn học là phương pháp nghị luận lấy vấn đề từ văn học như tác phẩm, tác giả, thời đại văn học,. làm nội dung bàn bạc, đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề tài và nội dung này thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính thời sự cao. Đối với học sinh THPT, các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến cho các em những suy nghĩ và nhận thức đúng đắn về cuộc sống; có ý nghĩa hướng đạo, đặc biệt là uốn nắn nhận thức cho các em về những vấn đề có tính hai mặt của đời sống xã hội đang tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ.

Tháng 10/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết 29 – NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Xác định được nhiệm vụ quan trọng đó nên những năm qua Bộ giáo dục đã không ngừng đưa ra những giải pháp mang tính cải tiến như: chuẩn bị đổi mới chương trình giáo khoa, đổi mới kiểm tra đánh giá, đổi mới phương pháp dạy học Những thay đổi đó nhằm phát triển năng lực người học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu hội nhập Quốc tế.

Cụ thể là tập trung đánh giá hai kỹ năng quan trọng: kĩ năng đọc hiểu văn bản và kĩ năng viết văn bản. Đề thi gồm hai phần: Đọc hiểu và tự luận (làm văn), trong đó tỷ lệ điểm của phần viết nhiều hơn phần đọc hiểu.

Với đề thi môn Ngữ văn đã được Bộ GD & ĐT tổ chức vào các kì thi trong những năm vừa qua cũng như đề thi minh họa được công bố vào ngày 06/12/2018 thì phần nghị luận văn học chiếm 5/10 điểm. Như vậy có thể thấy, phần nghị luận văn học trong đề thi đóng vai trò rất quan trọng, quyết định nhiều tới bài làm của học sinh. Với tầm quan trọng như vậy, bên cạnh việc ôn tập, rèn kỹ năng làm phần đọc hiểu, viết bài nghị luận xã hội thì việc ôn tập và rèn kỹ năng làm phần nghị luận văn học là điều cần thiết phải trang bị cho học sinh nhằm giúp học sinh đạt kết quả cao trong kì thi THPT Quốc gia sắp tới.

 

doc39 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 định về một tác phẩm: 
Ví dụ: Về hình tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng có ý kiến cho rằng: người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước; ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người lính thời kì kháng chiến chống Pháp.Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh chị hãy bình luận những ý kiến trên. (Đề thi đại học khối C năm 2013)
2.3.3.2. Cách làm bài dạng đề so sánh văn học: 
 - Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải quyếtvấn đề, song đối với kiểu đề so sánh văn học dù là ở dạng so sánh hai chi tiết, hai đoạn thơ, hai đoạnh văn, hay hai nhân vật .... Phương pháp làm  bài văn dạng này thông thường có hai cách:
+ Nối tiếp: Lần lượt phân tích hai vănbản rồi chỉ ra điểm giống và khác nhau.
+ Song song: Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau  rồi  lầnlượt phân tích từng luận điểm kết hợpvới việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản minh họa.
a. Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp. Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh khi tiếp cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và Đào tạo định hướng trong đáp án đềthi đại học - cao đẳng. Bước một lần lượt phân tích từng đối tượng so sánh cả về phương diện nội dung và nghệ thuật, sau đó chỉ ra điểm giống vàkhác nhau. Cách này học sinh dễ dàng triển khai các luận điểm trong bàiviết. Bài viết rõ ràng, không rối kiến thức nhưng cũng có cái khó là đến phần nhận xét điểm giống và khác nhau học sinh không thành thạo kĩ năng, nắm chắckiến thức sẽ viết lặp lại những gì đã phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy tiện. Mô hình khái quát của kiểu bài này như sau:
* Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này).
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
* Thân bài:
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1 (bước nàyvận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2 (bước nàyvận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
 - So sánh:  
+ Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình diện như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật...(bước này vận dụng kết hợp nhiều thaotác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luậnso sánh).
 + Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bốicảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưngthi pháp của thời kì văn học(bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủyếu là thao tác lập luận phân tích). 
* Kết bài:
 - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
 - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
b. Cách2: Phân tích song song được hiểu song hành so sánh trên mọi bình diện của hai đối tượng.Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lôgic, sự tinh nhạy trong phát hiện vấn đề học sinh mới tìm được luận diểm của bài viết và lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của cả hai văn bản đểchứng minh cho luận điểm đó. Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Ứng dụng cách viết này học sinh không phân tích lần lượt từng tácphẩm như cách một mà phân tích so sánh song song trên các bình diện: Xuất xứ - cảm hứng- hình tượng - chất liệu và giọng điệu trữ tình, mô hình khái quát của kiểu bài này như sau:
 * Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này).
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
* Thân bài:
- Điểm giống nhau:
+ Luận điểm 1(lấy dẫn chứng cả hai văn bản).
+ Luận điểm 1(lấy dẫn chứng cả hai văn bản).
+ Luận điểm .....
- Điểm khác nhau:
+ Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản).
+ Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản).
 + Luận điểm.....
* Kết bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.            
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.                
Hai cách làm bài của kiểu đề so sánh văn học là vậy, mỗi cách làm đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau. Trong thực tế không phải đề nào chúng ta cũng có thể áp dụng theo đúng khuôn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên. Phải tùy thuộc vào cách hỏi trong mỗi đề cụ thể đê áp dụng sao cho linh hoạt, phù hợp. Cũng có khi vận dụng đầy đủ các ý của phần thân bài, cũng có khi phải cắt bỏ một phần cho hợp với yêu cầu trọng tâm của đề, hay dụng ý của người viết.
2.3.3.3. Hướng dẫn thực nghiệm:
Để minh họa cho các bước làm một đề so sánh văn học tôi đưa ra hai ví dụ để ứng dụng. Ví dụ 1 sẽ được làm theo cách làm bài số 1 – Phân tích nối tiếp; Ví dụ 2 sẽ được làm theo cách làm bài số 2 –Phân tích song song. 
Ví dụ 1:
 Đề bài: Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam và “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân?
a. Hướng dẫn tìm hiểu đề: 
- Yêu cầu về hình thức: Kiểu đề so sánh hai chi tiết trong tác phẩm.
- Yêu cầu về nội dung: sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Nghĩa là dụng ý của người ra đề còn muốn nhấn mạnh đến mục đích của các nhà văn khi khi xây dựng sự tương phản giữa hai loại ánh sáng đó. Từ đó tìm ra nét tương đồng và khác biệt của từng tác phẩm.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam và “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
b. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
Đối với đề trên, làm bài của học sinh cần đáp ứng các yêu cầu sau: 
* Mở bài: 
 - Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai nhà văn thuộc dòng văn học lãng mạn, sinh ra trong một thời đại có nhiều biến động
 - Ánh sáng và bóng tối trong hai truyện ngắn được sử dụng như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về sự đối lập giữa thiện và ác và tốt và xấu, giữa hiện thực tăm tối và tương lai tươi sáng
* Thân bài: 
 - Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”:
+ Bóng tối: Dày đặc, bao trùm cả phố huyện và được lặp đi, lặp lại nhiều lần: Một đêm mùa hạ êm như nhung; đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối; tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà; các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa; đêm trong phố tĩnh mịch và đầy bóng tối.... biểu trưng cho cuộc sống tăm tối, tù đọng,quẩn quanh nơi phố huyện... (đó cũng chính là hình ảnh của xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1945).
+ Ánh sáng: Ánh sang tương phản với bóng tối nhằm tô đậm thêm bóng tối.
Ánh sáng nơi phố huyện: nhỏ nhoi, yếu ớt, thưa thớt chỉ là những quầng sáng leo lét, những hột sáng, những vệt sáng, những khe sáng,... tượng trưng cho số phận leo lét, mòn mỏi của những con người nơi đây...
 Ánh sáng Hà Nội trong hoài niệm của nhân vật Liên: Hà Nội rực sáng....vừa là quá khứ, vừa là ước mơ về tương lai của chị em Liên.
 Ánh sáng từ đoàn tàu vụt qua nhanh: các toa đèn sang trưng; các cửa kính sáng; đồng và kền lấp lánh.... ánh sáng của đoàn tàu khác hẳn với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt của phố huyện, hướng con người tới tương lai tươi sáng...
-> Kết quả của sựtương phản giữa ánh sáng và bóng tối: Biểu tượng cho những kiếp người sống leo lét vô danh trong một xã hội tù đọng tăm tối nhưng vẫn không nguôi hướng về một tương lai tươi sáng hơn.
- Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”:
 - Bóng tối: “mặt đất tối”, “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. hiện thân cho một không gian nhà tù tăm tối, một cuộc sống tù đọng, tối tăm đầy cái ác, cái xấu nơi nhà ngục thực dân, phong kiến. Đồng thời bóng tối cũng tượng trưng cho cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người.
- Ánh sáng: “một ngôi sao Hôm nhấp nháy”, “một ngôi sao chính vị từ biệt vũ trụ”, “vuông lụa trắng”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”là ánh sáng của chân lí, của tâm hồn con người, của cái đẹp tài hoa, của một nhân cách thanh cao
-> Kết quả của sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối là sự chiến thắng của thiên lương con người trước cái xấu cái ác, trước cái cao cả với cái thấp hèn
- Nhận xét điểm tương đồng và khác biệt: 
+ Điểm tương đồng: 
Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối - một thủ pháp nghệ thuật tương phản, đối lập mà văn học lãng mạn hay sử dụng nhằm tạotình huống truyện. Đây là các chi tiết nhỏ nhưng góp phần chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề tác phẩm.
Ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm tác phẩm vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng cao. Bóng tối tượng trưng cho cái xấu, còn ánh sáng tượng trưng cho cái tốt.
+ Điểm khác biệt:
Sự tương phản gữa ánh sáng và bóng tối được xây dựng trên sự đối lập gay gắt, có sự chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Thủ pháp nghệ thuật này dẫn dắt tình huống truyện đi đến kết thúc là sự chiến thắng của ánh sang đối với bóng tối, của chân lí, cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu cái ác. Qua đó nhà văn thể hiện rõ thái độ trân trọng cái Đẹp.
Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối không có sự chuyển biến bất ngờ. Ánh sáng của phố huyện nhỏ bé, ánh sang từ đoàn tàu qua nhanh nên ánh sáng chỉ càng làm cho bóng tối trở nên dày đặc hơn, tô đậm thêm cái ngột ngạt, tăm tối của cuộc sống nơi đây. Qua đó nhà văn bày tỏ lòng cảm thông đối với những con người nhỏ bé, đặc biệt là số phận trẻ thơ trong xã hội cũ- những con người sống trong tăm tối nhưng không nguôi hướng về ngày mai tươi sáng.
+ Lí giải sự khác biệt: 
Cả hai nhà văn đều xuất hiện trong giai đoạn văn học 1930-1945, trong một xã hội đầy biến động tuy nhiên phong cách sáng tác khác nhau.
Nguyễn Tuân: Đại biểu của dòng văn học lãng mạn, một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cảm hứng thẩm mĩ của ông thường hướng tới cái đẹp lớn lao, cái cao cả, những nhân cách lớn.... Vì thế sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đối lập bất ngờ, cuối cùng ánh sáng,cái Đẹp phải chiến thắng.
* Kết luận: 
-  Hai nhà văn, hai phong cách nhưng đều gặp nhau trong việc sử dụng thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối để thể hiện nhữngdụng ý nghệ thuật riêng.
- Đây là những chi tết nhỏ nhưng làm lên giá trị lớn....
Ví dụ 2: 
Đề bài: Hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp qua hai bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Đồng chí” của Chính Hữu?
a. Hướng dẫn tìm hiểu đề: 
- Yêu cầu về hình thức: Kiểu đề so sánh hình tượng nhân vật qua hai tác phẩm.
- Yêu cầu về nội dung: Với đề bài này người viết tự tìm ra luận điểm sao cho phù hợp, dù luận điểm xác định như nào thì nhất thiết người đọc cũng phải thấy được nét tương đồng và khác biệt trong hai tác phẩm. Đề này có thể thấy điểm giống nhau trên các bình diện: thời đại, hình tượng, lí tưởng...điểm khác nhau về bút pháp, nguồn gốc xuất thân...
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng trong hai bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Đồng chí” của Chính Hữu.
b. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
Giáo viên cần xác định cho học sinh đây là dạng hỏi không có định hướng hay nói một cách khác là một dạng của đề mở. Đối với đề trên, bài làm cần đáp ứng các yêu cầu sau: 
* Mở bài:
- Đề tài về người lính là đề tài quen thuộc của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
- Cùng viết về một đề tài song vẻ đẹp của hình tượng người lính trong “Đồng chí” qua cảm nhận của Chính Hữu và vẻ đẹp của hình tượng người lính trong “Tây Tiến” qua cảm nhận của Qung Dũng lại khác nhau. 
* Thân bài: 
 - Giống nhau:
 + Luận điểm 1: Hai tác phẩm cùng ra đời năm 1948, là những hình ảnh người lính đang sống, chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp – bảo vệ Tổ quốc.
+ Luận điểm 2: Họ đều lànhững anh lính bộ đội cụ Hồ sống chiến đấu trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trải qua bao gian nan thử thách, khắc nghiệt nhưng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn:
Với người lính Tây Tiến : Họ vượt lên thiên nhiên hiểm trở, dữ dội (Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm; Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người), cuộc sống thiếu thốn, bệnh tật (Tây Tiến đoàn binhkhông mọc tóc...)
Với người lính trong  “Đồng chí” là tinh thần chịu đựng gian khổ (áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, chân không dày, đêm rét chung chăn,...) chịu chung những cơn sốt rét (anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi...)
+ Luận điểm 3: Cả hai người lính đã không bị gian khổ đẩy lùi mà họ lớn lên với tầm vóc lớn lao, đầy sức mạnh,  một tinh thần lạc quan: Trong “Tây Tiến” trước thiên nhiên khắc nghiệt họ không hề chìm đi mà nổi lên hiên ngang, thách thức (Heo hút cồn mây súng ngửi trời...). Trong “Đồng chí” cũng là vẻ đẹp hiên ngang trong đêm canh gác (Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới; Đầu súngtrăng treo).
 - Khác nhau:
+ Luận điểm 1: Bút pháp.  
Hình tượng người lính “Tây Tiến” được vẽ bằng bút pháp lãng mạn.
Hình tượng người lính trong bài “Đồng chí” được thể hiện bằng bút pháp tả thực.
+ Luận điểm 2: Hoàn cảnh xuất thân. 
Người lính Tây Tiến ra đi từ những phố phường, mái trường, công sở, là nhữngthanh niên tri thức hà thành nên họ mang theo vào cuộc chiến đấu giấc mơ củamột tâm hồn lãng mạn  (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).
Người lính trong “Đồng chí” xuất thân từ những mái tranh nghèo, từ những vùng quê, đất mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá (Quê hương anh nước mặn đồng chua; Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá) nên họ mang vào cuộc chiến đấu cái dáng vẻ lam lũ của những miền quê.
+ Luận điểm 3: Vẻ đẹp của tâm hồn.
 Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất hào hoa (Mắt trừng gửi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm), tâm hồn bay bổng trước vẻ đẹp của thiên nhiên (Heo hút cồn mây súng ngửi trời). Một tâm hồn nghệ sĩ trong sinh hoạt tinh thần (Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa; Kìa em xiêm áo tự bao giờ; Khèn lên man điệu nàng e ấp; Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ)
Vẻ đẹp tâm hồn của người lính trong “Đồng chí” lại được nhấn mạnh đến tình đồng chí đồng đội giữa những người lính . Cơ sở làm nên tình cảm của họ là có chung một hoàn cảnh nghèo khổ nên họ dễ đồng cảm, có chung một chí hướng (Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ), chung tấm lòng yêu quê hương đất nước... Chính tình đồng đội, đồng chí đó đã tạo nên sức mạnh chiến đấu.
* Kết bài: 
- Hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau nhưng đã hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Hình tượng người lính đã sống lại trong lòng người đọc về một thời khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc.
 Lưu ý: Dạng bài so sánh văn học có yêu cầu so sánh khá phong phú, đa dạng khó có thể tìm ramột dàn bài khái quát thỏa mãn tất cả các dạng đề bài. Trong yêu cầu của từng đề bài cụ thể thuộc dạng bài này, học sinh cần linh hoạt, sáng tạo, không nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt qui trình trên. Các em có thể phối hợp nhiều bước cùng một lúc. Chẳng hạn, đồng thời vừa phân tích làm rõ đối tượng, vừa thực hiện nhiệm vụ so sánh trên hai bình diện nội dung và nghệ thuật, vừa lí giải nguyên nhân vì sao khác nhau hoặc chỉ trong bước so sánh, học sinh có thể kết hợp vừa so sánh vừa lí giải.... Vấn đề cốt lõi của mọi bài nghị luận là làm thế nào để vừa “đúng” vừa “trúng” vừa “hay”. Nguyên tắc trình bày một bài nghị luận so sánh văn học cũng không đi ra ngoài mục đích đó.
Trên đây là những dạng đề thường xuất hiện trong các đề thi THPT Quốc gia những năm gần đây. Vì vậy, để giúp học sinh ôn tập tốt và đạt kết quả cao, giáo viên cần hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận văn học đối với các dạng đề một cách hệ thông qua từng tác phẩm trong chương trình môn Ngữ văn giáo dục phổ thông.
3. Một số lưu ý khi làm bài nghị luận văn học
– Phải xác định đúng dạng đề là gì?
– Vì là bài văn nên nội dung viết cần tập trung làm rõ vấn đề mà đề bài yêu cầu, không viết dàn trải, lan man, có thể rèn luyện trước trong quá trình ôn tập tại nhà.
– Phải đảm bảo đủ bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài.
– Cố gắng thể hiện được nhiều quan điểm và thái độ của bản thân.
– Huy động kiến thức về văn học.
– Đảm bảo thời gian viết phù hợp, có thể viết từ 60- 65 phút.
VII.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
 	Sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi cho học sinh toàn Trung tâm thuộc cả 3 khối 10, 11 và 12. Đồng thời, sáng kiến cũng có thể nhân rộng áp dụng cho những các trường THPT nói chung và các Trung tâm GDTX có nhiều đối tượng học sinh khác nhau như Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc.
VIII. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT
	Không
IX. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
 Để hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học tốt trong đề thi THPT Quốc gia sắp tới, theo tôi cần đảm bảo được một số điều kiện sau:
- Trước hết, giáo viên cần bám sát quan điểm chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đạo tạo trong kì thi THPT Quốc gia sắp tới đối với việc ra đề thi và hướng dẫn ôn tập môn Ngữ văn trong năm học. Giáo viên căn cứ vào đó để hướng dẫn học sinh ôn tập đạt kết quả cao.
- Hơn nữa, cần có sự chỉ đạo thống nhất và quan tâm từ Ban Giám đốc Trung tâm với giáo viên giảng dạy bộ môn.
- Người giáo viên phải cung cấp đầy đủ những kiến thức lí thuyết liên quan đến đề thi và hướng dẫn học sinh làm bài.
- Người làm công tác giáo dục nói chung và giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng, phải thật sự có cái tâm trong sáng của người làm thầy, phải thực sự yêu nghề mến trẻ, hết lòng “vì học sinh thân yêu”. Luôn có tinh thần tự học, tự rèn, nâng cao trình độ lí luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lí và phải quan tâm đến công tác dạy- học, đổi mới phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục phù hợp với tình hình thực tiễn trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.	
- Khi hướng dẫn rèn luyện kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học, giáo viên không nên nóng vội, cần có sự kiên trì và tâm huyết với công tác giảng dạy học sinh của lớp mình.
X. ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC HOẶC DỰ KIẾN CÓ THỂ THU ĐƯỢC DO ÁP DỤNG SÁNG KIẾN THEO Ý KIẾN CỦA TÁC GIẢ VÀ THEO Ý KIẾN CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN ĐÃ THAM GIA ÁP DỤNG SÁNG KIẾN LẦN ĐẦU, KỂ CẢ ÁP DỤNG THỬ (NẾU CÓ)
X.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Qua quá trình giảng dạy môn Ngữ văn lớp 12 (Ban cơ bản) ở Trung tâm GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc, tôi rút ra một số nhận xét sau: 
- Về mức độ tập trung chú ý của học sinh: Học sinh tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học.
- Về khả năng ghi nhớ kiến thức: Học sinh ghi nhớ kiến thức một cách hiệu quả hơn. Kiến thức lí thuyết được truyền tải tới học sinh một cách có hệ thống và có kèm bài tập thực hành giúp các em hiểu bài hơn.
- Về hứng thú học tập: Qua quan sát các giờ dạy cho thấy học sinh học tập sôi nổi hơn, hăng hái hơn và tích cực rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học.
- Về kết quả học tập:
+ Giải pháp đã góp phần cải thiện năng lực viết bài văn nghị luận văn học của học sinh một cách rõ rệt so với khi chưa thực hiện giải pháp.
+ Kết quả các bài kiểm tra rèn luyện kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học của học sinh được nâng lên một cách rõ rệt. Thống kê tỉ lệ điểm các bài kiểm tra có viết bài văn nghị luận văn học trước và sau khi thực hiện giải pháp của lớp 12 như sau: 
LLớp
Số lượng
Chưa thực hiện giải pháp
Khi thực hiện giải pháp
Điểm
K,G (%)
Điểm
TB (%)
Điểm
yếu (%)
Điểm
K,G (%)
Điểm
TB (%)
Điểm
yếu (%)
12
18
 10%
 40%
 50%
30%
65%
5%
X.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
	Sáng kiến áp dụng cho việc rèn luyện kĩ năng bài văn nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia. Giáo viên giảng dạy có sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, phương tiện thiết bị dạy học hiện đại, học sinh sẽ hứng thứ hơn, tích cực, chủ động hơn, nâng cao hiệu quả dạy và học môn Ngữ văn.
XI. DANH SÁCH TỔ CHỨC/ CÁ NHÂN ĐÃ THAM GIA ÁP DỤNG SÁNG KIẾN LẦN ĐẦU
STT
Tên tổ chức/ cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi/ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
1
Lớp 12
TT GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc
Học sinh
2
Nguyễn Thị Loan
TT GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc
Dạy học
Vĩnh Yên, ngày....tháng 01 năm 2019
Thủ trưởng đơn vị/
Chính quyền địa phương
(Ký tên, đóng dấu)
Vĩnh Yên, ngày......tháng 01 năm 2019
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP CƠ SƠ
(Ký tên, đóng dấu)
Vĩnh Yên, ngày 21 tháng 01 năm 2019
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Loan

File đính kèm:

  • doc40.51.02.doc
Sáng Kiến Liên Quan