Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp và hình thức tổ chức dạy Luyện từ và câu Lớp 2+3
1. Thuận lợi:
1.1. Đối với học sinh:
- Các em có đầy đủ sách giáo khoa và vở bài tập.
- Được sự quan tâm của giáo viên, ban giám hiệu nhà trường.
1.2. Đối với giáo viên:
- Được sự quan tâm chỉ đạo của phòng giáo dục và nhà trường.
- Được tập huấn chương trình thay sách giáo khoa và tập huấn sử dụng đồ dùng dạy học. Giáo viên nắm vững các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
- Có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học
2. Khó khăn:
- Số ít học sinh cha mẹ chưa quan tâm đúng mức nên việc học hành của học sinh còn lơ là, mê chơi.
- Các em ít đọc sách nên các từ ngữ còn rất nghèo nàn.
- Số lượng học sinh nghèo của khối lớp tương đối nhiều nên cũng ảnh hưởng một phần đến việc học tập của các em.
- Môn Tiếng Việt được chia thành nhiều phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Mỗi phân môn có nhiệm vụ riêng nhưng đều có chung nhiệm vụ là hình thành và phát triển ở các em kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Luyện từ và câu có một vị trí hết sức quan trọng. Học tốt phân môn này học sinh có thể học tốt các môn khác như: Toán, Tự nhiên - xã hội và có thể giao tiếp tốt. Bởi lẽ, đây là môn học cung cấp vốn từ, hệ thống hóa từ, giúp học sinh nắm nghĩa của từ, cách sử dụng từ, câu và dấu câu.
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy khi học sinh không có hứng thú học tập thì giờ học trở nên nặng nề, buồn tẻ. Hình thức dạy học phù hợp có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 + 3 nói riêng. Nó có thể làm cho học sinh lĩnh hội kiến thức tốt hơn, nảy sinh khát vọng, lòng say mê, độ dẻo dai trong học tập. Hơn thế nữa, hình thức dạy học phù hợp tạo nên hứng thú học tập giúp các em nhận thức một cách chủ động, sáng tạo. Vì vậy, có thể nói, chọn đúng hình thức dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập.
PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 2 + 3 A. ĐẶT VẤN ĐỀ: Luyện từ và câu là một phân môn có vị trí đặc biệt của môn Tiếng Việt. Để đạt được mục tiêu dạy học Luyện từ và câu, người giáo viên cần nắm vững nội dung, phương pháp, biện pháp, các hình thức dạy học cụ thể thì mới đạt hiệu quả cao. Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp. Việc dạy luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giảng về từ và câu, rèn cho học sinh những kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời có khả năng hiểu và sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ. Việc đổi mới phương pháp dạy học có thành công, hiệu quả hay không là một phần phải có hình thức tổ chức dạy học phong phú và đa dạng Hình thức và phương pháp phải xây dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh thì tạo nên tiết học sinh động, đạt hiệu quả cao và phát huy được tích cực tự học, chủ động và sự sáng tạo của học sinh. Để góp phần nâng cao chất lượng của môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng, tôi đã nghiên cứu và sử dụng kinh nghiệm để viết ra “Phương pháp và hình thức tổ chức dạy Luyện từ và câu lớp 2 +3”. B. NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG 1. Thuận lợi: 1.1. Đối với học sinh: - Các em có đầy đủ sách giáo khoa và vở bài tập. - Được sự quan tâm của giáo viên, ban giám hiệu nhà trường. 1.2. Đối với giáo viên: - Được sự quan tâm chỉ đạo của phòng giáo dục và nhà trường. - Được tập huấn chương trình thay sách giáo khoa và tập huấn sử dụng đồ dùng dạy học. Giáo viên nắm vững các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. - Có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học 2. Khó khăn: - Số ít học sinh cha mẹ chưa quan tâm đúng mức nên việc học hành của học sinh còn lơ là, mê chơi. - Các em ít đọc sách nên các từ ngữ còn rất nghèo nàn. - Số lượng học sinh nghèo của khối lớp tương đối nhiều nên cũng ảnh hưởng một phần đến việc học tập của các em. - Môn Tiếng Việt được chia thành nhiều phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Mỗi phân môn có nhiệm vụ riêng nhưng đều có chung nhiệm vụ là hình thành và phát triển ở các em kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Luyện từ và câu có một vị trí hết sức quan trọng. Học tốt phân môn này học sinh có thể học tốt các môn khác như: Toán, Tự nhiên - xã hội và có thể giao tiếp tốt. Bởi lẽ, đây là môn học cung cấp vốn từ, hệ thống hóa từ, giúp học sinh nắm nghĩa của từ, cách sử dụng từ, câu và dấu câu. Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy khi học sinh không có hứng thú học tập thì giờ học trở nên nặng nề, buồn tẻ. Hình thức dạy học phù hợp có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 + 3 nói riêng. Nó có thể làm cho học sinh lĩnh hội kiến thức tốt hơn, nảy sinh khát vọng, lòng say mê, độ dẻo dai trong học tập. Hơn thế nữa, hình thức dạy học phù hợp tạo nên hứng thú học tập giúp các em nhận thức một cách chủ động, sáng tạo. Vì vậy, có thể nói, chọn đúng hình thức dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập. II. NHIỆM VỤ DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU: 1. Nhiệm vụ của phân môn luyện từ và câu: 1.1. Làm giào vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt câu cho các em. 1.1.1. Dạy nghĩa từ : Làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gòm việc thêm vào vốn từ của học sinh những từ mới và những nghĩa mới của từ đã biết, làm cho các em nắm được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. Dạy từ ngữ phải hình thành những khả năng phát hiện ra những từ mới, chưa biết trong văn bản cần tiếp nhận, nắm một số thao tác giải nghĩa từ, phát hiện ra những nghĩa mới của từ đã biết, làm rõ những sắc thái nghĩa khác nhau của từ trong những ngữ cảnh khác nhau. 1.1.2. Hệ thống hóa vốn từ : Dạy cho học sinh biết cách sắp xếp các từ có hệ thống trong trí nhớ để tích lũy từ được nhanh chóng và tạo ra tính thường trực của từ, tạo điều kiện cho các từ đi vào hoạt động lời nói đươc thuận lợi. Công việc này hình thành ở học sinh kĩ năng đối chiếu từ trong hệ thống hàng dọc của chúng, đặt từ trong hệ thống liên tưởng cùng chủ đề, đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa đồng âm, cùng cấu tạo, tức là kĩ năng liên tưởng để huy động vốn từ. 1.1.3. Tích cực hóa vốn từ: Dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kĩ năng sử dụng từ trong lời nói và lời viết của mình, đưa từ vào trong vốn từ tích hợp được học sinh dùng thường xuyên. Tích cực hóa vốn từ, tức là dạy học sinh biết dùng từ ngữ trong nói năng giao tiếp của mình. 1.1.4. Dạy học sinh biết cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng mẫu phù hợp với hoàn cảnh, mục đích giao tiếp. Trên cơ sở vốn ngôn ngữ trước khi đến trường, từ những hiện tượng cụ thể của tiếng mẹ đẻ, phân môn luyện từ và câu cung cấp cho học sinh một số kiến thức về từ và câu cơ bản, sơ giản, cần thiết và vừa sức với các em. Dạy luyện từ và câu nhằm trang bị cho các em những hiểu biết cấu trúc của từ, câu, quy luật hành chức của chúng. Cụ thể đó là các kiến thức về cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp từ, từ loại, các kiến thức về cấu tạo câu, các kiểu câu, dấu câu, các quy tắc dùng từ đặt câu. Ngoài các nhiệm vụ chuyên biệt trên, dạy luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. 2. Các nguyên tắc dạy luyện từ và câu: Để dạy luyện từ và câu một cách có mục đích, có kế hoạch, cần tuân thủ một số nguyện tắc sau: - Nguyện tắc giao tiếp. - Nguyên tắc tích hợp. - Nguyên tắc trực quan. - Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống của từ, câu trong dạy luyện từ và câu. - Nguyện tắc đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung và hình thức ngữ pháp trong dạy luyện từ và câu. 3. NỘI DUNG DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU 3.1. Về vốn từ: Nội dung vốn từ cung cấp cho học sinh: Ngoài các từ ngữ được dạy qua các bài tập đọc, chính tả, Tập viết, học sinh cung cấp vốn từ một cách có hệ thống trong các bài từ ngữ theo chủ đề. Chương trình đã xác định vốn từ cung cấp cho học sinh. Đó là, những từ ngữ thông dụng tối thiểu về thế giới xung quanh như công việc của học sinh ở trường và ở nhà, tình cảm gia đình và vẽ đẹp thiên nhiên, đất nước, những phẩm chất và hoạt động của con người Những từ ngữ được dạy ở tiểu học gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu gia đình, nhà trường, yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động Chúng làm giàu nhận thức, mở rộng tầm mắt của học sinh, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước con người, dạy các em biết yêu và ghét. Nội dung chương trình từ ngữ ở tiểu học phải phù hợp với yêu cầu phát triển ngôn ngữ của học sinh và đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc giáo dục trong dạy từ. Lớp 2: HS học thêm khoảng 300 – 350 từ ngữ ( kể cả thành ngữ, tục ngữ quen thuộc và nghĩa một số yếu tố gốc Hán thông dụng) theo các chủ đề: học tập; ngày, tháng, năm; đồ dùng học tập; các môn học; họ hàng, đồ dùng và công việc trong nhà; tình cảm, công việc gia đình; vật nuôi; các mùa, thời tiết, chim chóc, các loài chim; muông thú, loài thú; sông biển; cây cói; Bác Hồ; nghề nghiệp. Ngoài ra còn có các chủ đề mở rộng vốn từ theo ý nghĩa khái quát các từ (từ loại) ở các bài như Từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, Từ chỉ hoạt đông trạng thái, Từ chỉ đặc điểm, Từ chỉ tính chất và có một bài về lớp từ: từ trái nghĩa. Lớp 3: Học sinh học thêm khoảng 400 – 450 từ ngữ ( kể cả một số thành ngữ, tục ngữ quen thuộc và nghĩa của một số yếu tố gốc Hán thông dụng và một số từ địa phương) theo các chủ đề: Thiếu nhi; gia đình; trường học; cộng đồng; quê hương; từ địa phương; các dân tộc; thành thị; nông thôn; Tổ quốc; sáng tạo; nghệ thuật; lễ hội; thể thao; các nước; thiên nhiên. Ngoài ra vốn từ còn được mở rộng trong các bài ôn tập về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động trạng thái, từ chỉ đặc điểm, tính chất và có một bài về lớp từ địa phương. 3. 2. Các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu: Lớp 2: - Từ và câu. - Các lớp từ: Từ trái nghĩa - Từ loại: Từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, trạng thái, từ chỉ đặc điểm, tính chất . - Các kiểu câu: Ai là gì? Ai làm gì ? Ai thế nào? Khẳng định, phủ định. - Cấu tạo câu ( thành phần câu): Đặt, trả lời câu hỏi “Khi nào?”; Đặt, trả lời câu hỏi “ Ở đâu?”; Đặt, trả lời câu hỏi “ Như thế nào?”; Đặt, trả lời câu hỏi “ Vì sao?”; Đặt, trả lời câu hỏi “ Để làm gì ?”. - Dấu câu: Dấu chấm hỏi, dấu phẩy, dấu chấm than, dấu chấm. Dấu hai chấm. - Ngữ âm - chính tả: Tên riêng và cách viết tên riêng. Lớp 3: - Các lớp từ: Từ địa phương (1 bài) - Từ loại: Ôn tập về từ chỉ sự vật, Ôn tập về từ chỉ hoạt động trạng thái, ôn tập về từ chỉ đặc điểm. - Biện pháp tu từ: So sánh, nhân hóa. - Các kiểu câu: Ôn tập về câu Ai là gì, Ôn tập về câu Ai làm gì, Ôn tập về câu Ai thế nào. - Cấu tạo câu: Ôn tập cách đặt và trả lời câu hỏi “Khi nào”, Ôn tập cách đặt và trả lời câu hỏi “ Ở đâu”, Ôn tập cách đặt và trả lời câu hỏi “Vì sao”, Đặt và trả lời câu hỏi “Bằng gì”. - Dấu câu: Dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm. 3.3. Các kiểu bài học Luyện từ và câu trong sách giáo khoa. Phần lớn các bài học luyện từ và câu trong sách giáo khoa được cấu thành một tổ hợp bài tập. Bài luyện từ và câu lớp 2&3 trong sách giáo khoa được ghi tên theo phân môn, còn các tên bài chỉ được ghi ở phần mục lục. Hầu hết các bài học ở lớp 2&3 bao gồm cả nhiệm vụ luyện từ và luyện câu. Các tên bài thể hiện điều này. Ví dụ: Mở rộng vốn từ: từ ngữ về học tập – Dấu chấm hỏi ( lớp 2 tuần 1); mở rộng vốn từ : Thiên nhiên – Ôn tập câu “ Ai là gì?” ( lớp 3 tuần 1). 4. Phương pháp dạy học * Phương pháp thực hành. * Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề. * Phương pháp đàm thoại. * Phương pháp thảo luận nhóm. * Phương pháp sử dụng trò chơi học tập. - Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng tiết dạy Luyện từ và câu đều có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách máy móc, đồng loạt. Không có phương pháp nào là “vạn năng” là “tuyệt đối” đúng, là có thể phù hợp với mọi khâu của tiết dạy Luyện từ và câu. Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới phát huy được tính tích cực của học sinh trong mỗi tiết dạy Luyện từ và câu và đạt được thành công trong mỗi bài dạy. Vốn từ các em trở nên đa dạng, phong phú khi các em chủ động phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo, tinh thần hợp tác làm việc, cùng với sự chỉ đạo sáng suốt của người giáo viên sẽ đem lại kết quả hoàn hảo nhất. 5. Hình thức tổ chức dạy học: 5.1. Định nghĩa: Hình thức tổ chức dạy học là hình thức vận động của nội dung dạy học cụ thể trong không gian, địa điểm và những điều kiện xác định nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu dạy học. Có nhiều cách phân loại hình thức tổ chức dạy học, khái quát cách phân loại và căn cứ vào thực tiễn dạy học ở trường Phổ Thông có các hình thức tổ chức dạy học sau: 5.2. Hình thức tổ chức dạy học trên lớp: Là hình thức tổ chức dạy học mà thời gian học tập được quy định một cách xác định và ở một địa điểm riêng biệt, giáo viên chỉ đạo hoạt động nhận thức có tính chất tập thể ổn định, có thành phần không đổi, đồng thời chú ý đến những đặc điểm của từng học sinh để sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm vững tài liệu học tập một cách trực tiếp cũng như làm phát triển 5. 2.1. Đặc điểm của hình thức tổ chức dạy học trên lớp: - Lớp học có thành phần không đổi trong mỗi giai đoạn của quá trình dạy học. - Giáo viên chỉ đạo hoạt động nhận thức của cả lớp, đồng thời chú ý đến những đặc điểm của từng học sinh. - Học sinh nắm tài liệu một cách trực tiếp tại lớp. 5. 2. 2. Hình thức tổ chức dạy học ngoài lớp: - Là hình thức tổ chức dạy học trong đó giáo viên tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh ở địa điểm ngoài lớp học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm vững, mở rộng kiến thức thông qua các hoạt động và các mối quan hệ đa dạng từ môi trường học tập. + Đặc điểm của hình thức tổ chức dạy học ngoài lớp: - Là hình thức tổ chức dạy học linh hoạt, cho phép kiến tạo các môi trường học tập đa dạng, kích thích được hứng thú học tập của học sinh. - Làm cho việc học tập trong nhà trường gần hơn với thực tiễn cuộc sống. - Giúp học sinh có điều kiện để trải nghiệm và thực hiện phương thức học tập bằng chia sẻ có hiệu quả. 5. 3. Căn cứ vào sự chỉ đạo của giáo viên đối với toàn lớp hay với nhóm học sinh trong lớp, có hình thức tổ chức dạy học cá nhân, theo nhóm và toàn lớp. 5.3.1. Hình thức tổ chức dạy học cá nhân: Là hình thức tổ chức dạy học, trong đó dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên, mỗi học sinh độc lập thực hiện những nhiệm vụ học tập của mình theo nhịp độ riêng để đạt đến mục tiêu dạy học chung. 5.3.2. Hình thức tổ chức dạy học theo nhóm: Là hình thức tổ chức dạy học có sự kết hợp tính tập thể và tính cá nhân, trong đó học sinh từng nhóm dưới sự chỉ đạo của giáo viên trao đổi những ý tưởng, nguồn kiến thức với nhau, giúp đỡ, hợp tác với nhau trong việc nắm vững tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Đặc trưng của hình thức tổ chức dạy học theo nhóm là sự tác động trực tiếp giữa học sinh với nhau, sự cùng phối hợp hoạt động của học sinh. + Phân loại: Có 2 hình thức học tập theo nhóm tại lớp, đó là hình thức tổ chức dạy học theo nhóm thống nhất và hình thức tổ chức dạy học nhóm phân hoá. - Hình thức học tập theo nhóm thống nhất: Tất cả học sinh trong lớp thực hiện những nhiệm vụ giống nhau. - Hình thức học tập theo nhóm phân hoá: Mỗi nhóm khác nhau thực hiện những nhiệm vụ khác nhau trong khuôn khổ chung của cả lớp. 5.3.3. Hình thức tổ chức dạy học toàn lớp: Là hình thức tổ chức dạy học trong đó giáo viên lãnh đạo đồng thời hoạt động của tất cả học sinh, tích cực điều khiển việc lĩnh hội tri thức, việc ôn tập và củng cố tri thức, rèn luyện kỹ năng chung cho cả lớp và mỗi học sinh, đồng thời hoàn thành nhiệm vụ học tập chung. * Tất cả các hình thức tổ chức dạy học trên có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi hình thức tổ chức dạy học có chức năng và vai trò nhất định trong việc dạy và học. Tuy nhiên, hình thức tổ chức dạy học trên lớp là hình thức dạy học cơ bản. Lưu ý: Cũng cần tránh, trong một tiết học có nhiều hình thức lặp lại. Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học. Trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải có năng lực sư phạm. Ngoài ra, giáo viên muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Việc đổi mới phương pháp dạy học tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo một sự tương ứng cần thiết. Sự đa dạng của phương pháp dạy học trong sự phối hợp của chúng, đòi hỏi phải có một số hình thức tổ chức dạy học thích hợp. Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực phát triển học sinh một khía cạnh nào đó. Vì vậy, chúng ta cần phải biết cách tổ chức dạy học. Phương pháp dạy học mới, đòi hỏi phải có hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, trao đổi thảo luận với nhau nhiều hơn. Hình thức phải xây dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Hình thức phù hợp thì tạo nên tiết học sinh động, đạt hiệu quả cao và phát huy được tính tích cực tự học, chủ động và tự sáng tạo của học sinh. Chuẩn bị cho một tiết dạy Luyện từ và câu: * Đối với học sinh: - Phải chuẩn bị bài trước khi đến lớp. - Trong giờ học phải tập trung nghe giảng, không làm việc riêng. - Tích cực tham gia phát biểu ý kiến. - Khi làm bài tập phải đọc kĩ yêu cầu của bài tập và xác định được bài yêu cầu làm gì . - Trình bày bài làm phải rõ ràng, biết dùng từ, đặt câu đầy đủ ý, viết đầy đủ dấu câu theo yêu cầu mẫu câu. Viết được đoạn văn đúng theo yêu cầu. * Đối với giáo viên: - Nghiên cứu kĩ phương pháp giảng dạy. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học. Nội dung dạy học phải tinh giản và được xây dựng theo tình huống đòi hỏi học sinh phải tự tìm tòi, tự khám phá, chiếm lĩnh và vận dụng. - Tăng cường các thiết bị dạy học, thường xuyên sử dụng và tự làm đồ dùng dạy học để góp phần giúp học sinh thực hành tốt các bài tập. - Giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học đúng yêu cầu, phù hợp với nội dung bài học, cụ thể, rõ ràng, khoa học. * Sử dụng đồ dùng dạy học: Thiết bị dạy học được coi là một trong những nguồn tri thức quan trọng để góp phần tích cực hóa các hoạt động của học sinh, lượng thông tin mà thiết bị dạy học đưa ra phải là một tình huống có tính chất nêu vấn đề, gợi vấn đề để qua đó học sinh có thể quan sát, thực hành thảo luận, khám phá vấn đề. * Những điểm cần lưu ý khi dạy tiết Luyện từ và câu: Để học sinh học tốt, đạt chất lượng cao phân môn luyện từ và câu, giáo viên phải kết hợp các yếu tố sau đây: - Nghiên cứu và chuẩn bị kỹ bài trước khi dạy. - Xác định đúng mục tiêu bài dạy. - Sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài. - Chọn các hình thức dạy học phù hợp với từng bài tập. - Chuẩn bị đồ dùng dạy học đầy đủ và sử dụng đúng mục đích, đúng thời điểm, khoa học, chính xác, rõ ràng. - Cần khen ngợi, động viên kịp thời học sinh. C. KẾT LUẬN Việc đổi mới phương pháp dạy học có thành công, hiệu quả hay không là một phần phải có hình thức tổ chức học tập phong phú và đa dạng. Hình thức phải xây dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Hình thức phù hợp thì tạo nên tiết học sinh động, đạt hiệu quả cao và phát huy được tính tích cực tự học, chủ động và sáng tạo của học sinh. Trong quá trình thực hiện : “ Phương pháp và Các hình thức dạy Luyện từ và câu lớp 2 + 3”, tôi đã tham khảo các tài liệu dạy học của phân môn cũng như những kinh nghiệm giảng dạy và học hỏi kinh nghiệm từ bạn đồng nghiệp, nhưng sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến xây dựng của Tổ chuyên môn và BGH cũng như quý thầy cô giáo để đề tài của tôi thực hiện có tính khả thi hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Minh Diệu, ngày 27 tháng 12 năm 2018 Người viết Quách Thanh Bình
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_va_hinh_thuc_to_chuc_day_l.doc