Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng đồ dùng thí nghiệm ở những bài thực hành môn Vật lí
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục trong đó hoạt động cơ bản là dạy học, là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm mà loài người đã tích lũy được mà phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh theo mục tiêu đào tạo. Học sinh cùng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì các phẩm chất và năng lực cá nhân sớm được hình thành và phát triển toàn diện. Năng động và sáng tạo là những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống hiện đại, nó phải được hình thành ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Chính vì lẽ đó trong các môn học nói chung và môn Vật lí nói riêng, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh đã dược các giáo viên áp dụng từ nhiều năm nay, trong đó phương pháp tự nghiên cứu giúp học sinh tự học, tự sáng tạo được đánh giá là phương pháp có giá trị đức dục lớn nhất. Và việc làm các thí nghiệm vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết định bỡi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “ học đi đôi với hành ”.
Thường thì do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào đó về các hiện tượng vật lí. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở giúp các em tự nghiên cứu Vật lí, bởi vì trước một hiện tượng vật lí học sinh có thể có những hiểu biết khác nhau, thậm chí là sai. Ví dụ: Học sinh nào cũng thấy mọi vật rơi là do Trái Đất hút, nhưng không ít học sinh lại cho rằng vật nặng thì rơi nhanh hơn vật nhẹ. Vì vậy, khi giảng dạy Vật lí giáo viên một mặt phải tận dụng những kinh nghiệm sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh lí, bổ sung, hệ thống hóa những kinh nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác, đầy đủ bằng các thí nghiệm vật lí, nhờ đó mà tránh được tính hình thức trong giảng dạy.
chép. c) Xử lí kết quả thí nghiệm: - Với thí nghiệm thực hành khảo sát: Cả nhóm cùng dựa vào kết quả thí nghiệm để thảo luận tìm ra kiến thức mới. - Với thí nghiệm thực hành kiểm nghiệm, nhóm hoặc cá nhân làm báo cáo kết quả thí nghiệm ghi rõ nhận xét và so sánh kết quả thí nghiệm với lí thuyết đã học. - Với những thí nghiệm có tính toán: Mỗi học sinh tính toán độc lập theo số liệu đã thu được và so sánh trong nhóm để kiểm tra lại. d) Tổng kết thí nghiệm: - Giáo viên phân tích kết quả thí nghiệm của học sinh và giải đáp thắc mắc. - Giáo viên rút kinh nghiệm qua cách làm thí nghiệm của các nhóm trong lớp. 3) Tăng cường quản lí hoạt động nhóm học sinh khi làm thí nghiệm: Trong khâu tổ chức lên lớp cần hướng dẫn học sinh học tập theo nhóm như sau: - Làm việc chung cả lớp: Giáo viên nêu vấn đề, nhiệm vụ nhận thức, yêu cầu học sinh đọc thông tin sách giáo khoa, nghiên cứu hình vẽ, nêu mục đích, dụng cụ thí nghiệm, cách tiến hành thí nghiệm, sau đó giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm và hướng dẫn cách làm việc theo nhóm. - Làm việc theo nhóm: + Nên chia nhóm có sự tham gia của cả học sinh nam và học sinh nữ, học sinh có nhiều trình độ khác nhau như: giỏi, khá, trung bình, yếu để các em tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, tạo điều kiện tốt cho việc làm thí nghiệm. + Giao nhiệm vụ cho nhóm trưởng, nhóm phó: Nhóm trưởng nhận, trả dụng cụ thí nghiệm, điều khiển các bạn trong nhóm cùng làm thí nghiệm. Nhóm phó ( thư kí ) ghi chép lại các kết quả thí nghiệm, hiện tượng thí nghiệm cần quan tâm. + Các thành viên trong nhóm được nhóm trưởng phân công chịu trách nhiệm ( hoặc giám sát ) một công việc nào đó. + Mọi thành viên trong nhóm đều có trách nhiệm để hoàn thành thí nghiệm và đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm. + Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm ( không nhất thiết phải là nhóm trưởng hay là thư kí, mà có thể là một thành viên trong nhóm đại diện trình bày ). - Làm việc chung cả lớp: Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả thí nghiệm, thảo luận chung ( các nhóm nhận xét, đóng góp ý kiến và bổ sung cho nhau ), giải thích nguyên nhân sai số ( nếu có ). Trong khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên phải quản lí tốt hoạt động nhóm nếu không một số học sinh ý thức kém không chú ý đến việc làm thí nghiệm mà ỷ lại vào bạn, nghịch ngợm làm hỏng đồ dùng thí nghiệm. Trong giờ học thực hành giáo viên cho điểm bài thực hành nên tổng hợp chung cả điểm ý thức và điểm nội dung thực hành. 4) Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình làm thí nghiệm: Khi tổ chức cho các nhóm học sinh làm thí nghiệm, giáo viên nên chủ động giao thời gian cho các nhóm hoàn thành thí nghiệm để tạo sự thi đua giữa các nhóm giúp các thành viên trong nhóm tích cực hơn, sau đó giáo viên nhận xét, động viên các nhóm làm việc tích cực nhất, hiệu quả nhất để kịp thời động viên học sinh. Trong nhiều bài học, sách giáo khoa chỉ đưa ra một phương án làm thí nghiệm cơ bản nhất và giáo viên cũng hướng dẫn học sinh làm theo phương án sách giáo khoa đưa ra, nhưng giáo viên có thể đặt ra câu hỏi để học sinh đưa ra các tình huống làm thí nghiệm theo phương án khác cũng có thể đạt được mục đích của thí nghiệm. Các thiết bị dạy học như thí nghiệm, mô hình, tranh vẽ, biểu bảng, băng hình, sách giáo khoa, được sử dụng không chỉ là phương tiện minh họa kiến thức mà là nguồn tri thức, là phương tiện để học sinh khai thác, tìm tòi, phát hiện giải quyết vấn đề đặt ra, thông qua đó mà chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng, ví dụ như: Tạo điều kiện để học sinh tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút ra nhận xét, kết luận; tạo điều kiện để học sinh tìm hiểu cấu tạo, cách sử dụng một dụng cụ đo; thông qua việc nghiên cứu các số liệu đã cho trong bảng để rút ra kết luận; khai thác hình vẽ với vai trò là nguồn thông tin, chứ không phải là hình ảnh minh họa lời trình bày của sách giáo khoa. Tạo điều kiện cho đa số học sinh được sử dụng thiết bị dạy học để hoàn thành nhiệm vụ học tập. 5) Lưu ý đến tính kĩ thuật của đồ dùng thí nghiệm và thao tác thí nghiệm: Các dụng cụ thí nghiệm thường có độ chính xác không giống nhau mặc dù có cùng một khuôn mẫu chế tạo. Các dụng cụ trong các bộ thí nghiệm hiện nay chất lượng còn thấp, do đó trước khi làm thí nghiệm ( hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm ) trên lớp giáo viên cần làm thí nghiệm nhiều lần để tìm hiểu nguyên nhân sai số, tìm cách khắc phục để hạn chế đến mức thấp nhất sai số trong phép đo. Nếu sau thí nghiệm có sai số cho phép thì nân cho học sinh giải thích nguyên nhân dẫn đến sai số trong các phép đo. Thao tác thí nghiệm là một vấn đề khó, nó không chỉ đưa ra kết quả thực nghiệm tốt mà trong mỗi động tác của người thầy đều phải mang tính sư phạm. Để có được thao tác đẹp, chính xác và thuyết phục thì mỗi người giáo viên cần rèn luyện kĩ năng thực hành của mình bằng cách làm thí nghiệm nhiều lần, tiếp xúc với đồ thí nghiệm nhiều lần để rút ra kinh nghiệm cho bản thân. 6) Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc mô phỏng, hỗ trợ các thí nghiệm vật lí: Vật lí học ở trường phổ thông là một môn khoa học thực nghiệm, mọi kiến thức đều được xây dựng từ việc quan sát các hiện tượng, quá trình trong tự nhiên và nhất là từ các thí nghiệm. Trong nhà trường hiện nay không phải tất cả các thí nghiệm trong các bài dạy đều được thực hiện, có những bài phải dùng thí nghiệm mô phỏng. Sử dụng máy tính điện tử hỗ trợ các thí nghiệm vật lí sẽ khắc phục được một số nhược điểm của thí nghiệm vật lí truyền thống. Ví dụ minh họa: Tiết 15 – Bài 15: THỰC HÀNH: XÁC ĐỊNH CÔNG SUẤT CỦA CÁC DỤNG CỤ ĐIỆN (VẬT LÍ 9) I. Mục tiêu của tiết thực hành: 1. Kiến thức: - Xác định được công suất của các dụng cụ điện bằng vôn kế và ampe kế. 2. Kĩ năng: - Có kĩ năng mắc mạch điện và sử dụng các dụng cụ đo điện. - Có kĩ năng làm bài thực hành và viết báo cáo thực hành. 3. Thái độ: - Có thái độ cẩn thận, trung thực. Hợp tác trong hoạt động nhóm. II. Chuẩn bị: 1. Chuẩn bị của giáo viên cho mỗi nhóm học sinh: - 1 nguồn điện 6V, 1 công tắc, 1 ampe kế và 1 vôn kế có GHĐ và ĐCNN phù hợp, 1 bóng đèn pin 2,5V - 1W, 1 quạt điện nhỏ có HĐT định mức 2,5V; 1 biến trở con chạy loại 20Ω – 2A. 2. Chuẩn bị của học sinh: - Mỗi học sinh chuẩn bị một báo cáo thực hành đã làm phần trả lời câu hỏi. - Bảng phụ ghi tóm tắt các bước tiến hành thí nghiệm xác định công suất của bóng đèn ở các hiệu điện thế khác nhau và công suất của quạt điện. III. Tiến trình bài giảng: 1. Ổn định tổ chức (1 phút): - Lớp trưởng báo cáo sĩ số lớp: 2. Bài mới: Hoạt động của học sinh Trợ giúp của giáo viên Hoạt động1: Kiểm tra bài cũ, tổ chức tình huống học tập (7 phút) - Cá nhân thực hiện theo yêu cầu của giáo viên: + P = U.I Trong đó: U là hiệu điện thế (V) I là cường độ dòng điện (A) P là công suất (W) + Cần đo được hiệu điện thế giữa hai đầu dụng cụ và cường độ dòng điện chạy qua dụng cụ khi đó. + Đo hiệu điện thế bằng vôn kế. Mắc vôn kế song song với đoạn mạch cần đo hiệu điện thế, sao cho chốt (+) của vôn kế được mắc về phía cực dương của nguồn điện. + Đo cường độ dòng điện bằng ampe kế. Mắc ampe kế nối tiếp với đoạn mạch cần đo cường độ dòng điện sao cho chốt (+) của ampe kế được mắc về phía cực dương của nguồn điện. + 1 học sinh lên bảng vẽ sơ đồ mạch điện theo yêu cầu của giáo viên, học sinh dưới lớp vẽ vào vở, nêu nhận xét. + Vôn kế đo hiệu điện thế giữa hai đầu bóng đèn, ampe kế đo cường độ dòng điện qua đèn. + Dùng thêm biến trở, mắc biến trở nối tiếp với bóng đèn. + Cá nhân học sinh quan sát, trả lời theo yêu cầu của giáo viên, nhận xét câu trả lời của bạn. - Cá nhân nắm vấn đề cần nghiên cứu của tiết học, ghi tên bài học vào vở. - Lớp phó học tập báo cáo tình hình chuẩn bị bài của các bạn trong lớp? - Cho cô biết: Công suất của một dụng cụ điện hoặc một đoạn mạch liên hệ với hiệu điện thế và cường độ dòng điện bằng hệ thức nào? (Học sinh trả lời – giáo viên ghi vào phần bảng nháp) - Dựa vào hệ thức này, muốn xác định công suất của một dụng cụ điện bằng thí nghiệm ta cần phải đo được các đại lượng nào? - Sử dụng các dụng cụ đo điện nào để đo hiệu điện thế? Nêu cách mắc dụng cụ đo điện đó vào mạch điện? - Sử dụng các dụng cụ đo điện nào để đo cường độ dòng điện? Nêu cách mắc dụng cụ đo điện đó vào mạch điện? - Lên bảng vẽ sơ đồ mạch điện thí nghiệm xác định công suất của một bóng đèn điện bằng ampe kế và vôn kế? - Cho học sinh dưới lớp nhận xét, chốt sơ đồ đúng. - Từ sơ đồ, nêu vai trò của ampe kế, vôn kế? - Muốn xác định công suất của bóng đèn điện ở những hiệu điện thế khác nhau ta cần dùng thêm bộ phận nào? Cách mắc bộ phận đó vào mạch điện? - Đặt 1 biến trở vào sơ đồ trên bảng và hỏi: + Giả sử hai đầu của mạch điện được nối với hai chốt của biến trở như thế này, vậy cần dịch chuyển con chạy về phía nào để điện trở của biến trở tham gia vào mạch là lớn nhất? - Nhận xét về sự chuẩn bị bài về nhà của lớp. - Đặt vấn đề vào bài mới: Để giúp các em vận dụng những kiến thức vừa nêu, tiết học hôm nay chúng ta đi thực hành xác định công suất của các dụng cụ điện. - Thông báo cách chấm điểm của tiết thực hành: Cô sẽ chấm với nguyên tắc: 5 điểm báo cáo, 3 điểm kĩ năng thực hành trên lớp do cô chấm và 2 điểm ý thức do nhóm bình bầu vào cuối giờ. Tổng điểm là 10. Vì vậy cô mong các em cùng cố gắng. Hoạt động 2: Tìm hiểu sự chuẩn bị dụng cụ, làm quen dụng cụ cho tiết thực hành (5phút) - Dựa trên mục đích của tiết thực hành, cá nhân nêu lên các dụng cụ cần dùng của tiết thực hành. - Thông báo nội dung của tiết thực hành: - Xác định công suất của bóng đèn với các hiệu điện thế khác nhau. - Xác định công suất của quạt điện khi mắc vào hiệu điện thế bằng hiệu điện thế định mức của quạt. - Để thực hiện những nội dung đó cần phải chuẩn bị những dụng cụ gì? - Đưa ra các dụng cụ giới thiệu để học sinh quan sát và chốt cách sử dụng một số dụng cụ. Ngoài ra còn chuẩn bị mỗi bạn một báo cáo thực hành. Hoạt động 3: Thực hành xác định công suất của bóng đèn với các hiệu điện thế khác nhau (14 phút) - Cá nhân nêu lên dụng cụ cần dùng. - Nhóm đọc SGK, thảo luận, nêu các bước tiến hành của thí nghiệm. - Cá nhân đọc lại một lần nữa các bước tiến hành. - Nhóm trưởng nhận dụng cụ điều khiển nhóm thực hiện theo yêu cầu của giáo viên. - Cá nhân trả lời: Công suất của đèn đo được trong các lần thí nghiệm nhỏ hơn công suất định mức của đèn vì hiệu điện thế đặt vào đèn nhỏ hơn hiệu điện thế định mức của đèn. - Để thực hiện nội dung này cần những dụng cụ nào? - Hãy đọc thông tin hướng dẫn thực hành của mục I phần II trong SGK để cùng nhau thảo luận nêu lên các bước tiến hành nội dung này? - Cho 2 học sinh nêu, chốt các bước bằng bảng phụ, yêu cầu học sinh đọc lại. - Yêu cầu nhóm trưởng nhận dụng cụ, điều khiển nhóm để các thành viên trong nhóm đều được tiến hành và hoàn thành thí nghiệm trong 12 phút. Chú ý trong thao tác: Thực hiện đúng quy tắc mắc các dụng cụ đo điện và biến trở trước khi bật nguồn và đóng công tắc. - Em có nhận xét gì về công suất của đèn đo được trong các lần thí nghiệm so với công suất định mức của đèn? Hoạt động 4: Thực hành xác định công suất của quạt điện (9 phút) - Cá nhân nêu lên dụng cụ cần dùng. - Nhóm đọc SGK, thảo luận, nêu các bước tiến hành của thí nghiệm. - Cá nhân đọc lại một lần nữa các bước tiến hành. - Nhóm trưởng nhận dụng cụ điều khiển nhóm thực hiện theo yêu cầu của giáo viên. + Công suất của quạt điện đo được trong thí nghiệm này được gọi là công suất định mức của quạt vì hiệu điện thế thực tế đạt vào hai đầu quạt bằng hiệu điện thế định mức của quạt. - Để thực hiện nội dung này cần những dụng cụ nào? - Hãy đọc thông tin hướng dẫn thực hành của mục 2 phần II trong SGK để cùng nhau thảo luận nêu lên các bước tiến hành thí nghiệm? - Cho 2 học sinh nêu, chốt các bước bằng bảng phụ, yêu cầu học sinh đọc lại. - Yêu cầu nhóm trưởng điều khiển nhóm để các thành viên trong nhóm đều được tiến hành và hoàn thành thí nghiệm trong 6 phút. Chú ý trong thao tác: thực hiện đúng quy tắc mắc biến trở trước khi bật nguồn và đóng công tắc. - Công suất của quạt điện đo được trong thí nghiệm được gọi là gì ? Vì sao? Hoạt động 5: Tổng kết đánh giá thái độ học tập của học sinh (8 phút) - Cá nhân hoàn thành báo cáo thực hành. - Nhóm bình bầu chấm điểm về ý thức thực hành của từng thành viên trong nhóm. - Cá nhân trả lời: Nếu tăng hoặc giảm hiệu điện thế giữa hai đầu dụng cụ điện đi n lần thì công suất tiêu thụ điện của dụng cụ sẽ tăng hoặc giảm đi n2. + Khi dụng cụ được dùng ở hiệu điện thế định mức thì công suất tiêu thụ điện của dụng cụ bằng công suất định mức. - Cho cá nhân hoàn thành báo cáo, nhóm bình bầu chấm điểm về ý thức thực hành của từng thành viên trong nhóm. - Thu báo cáo thực hành, cho học sinh nêu nguyên nhân kết quả thí nghiệm của một số nhóm khác nhau và chốt lại kiến thức cần ghi nhớ. - Thu bản đánh giá điểm của các thành viên trong mỗi nhóm. - Qua bài thực hành, em rút ra được những nhận xét gì? - Muốn đo công suất tiêu thụ của một bóng đèn ta cần phải có những dụng cụ gì? Hãy nêu các bước đo công suất tiêu thụ của bóng đèn đó? - Thông báo: Dựa trên cơ sở, cách tiến hành thí nghiệm như hôm nay, trong kĩ thuật người ta chế tạo ra dụng cụ đo trực tiếp công suất. Dụng cụ đó có tên gọi là oát kế. Thang đo của oát kế được chia vạch theo tích P = U.I - Nhận xét, rút kinh nghiệm về: + Thao tác thí nghiệm. + Thái độ học tập của nhóm. + Ý thức kỉ luật. Hoạt động 6: Hướng dẫn về nhà (1 phút) - Cá nhân ghi nhớ nội dung về nhà. - Về nhà xem lại nội dung bài thực hành. - Trình bày vào vở nội dung trả lời của câu hỏi “Muốn đo công suất tiêu thụ của một bóng đèn ta cần phải có những dụng cụ gì? Hãy nêu các bước để đo công suất tiêu thụ của bóng đèn đó? - Đọc bài mới : “Định luật Jun – Lenxơ”. IV) Đánh giá kết quả thực hiện được qua quá trình giảng dạy: Với sự trang bị tương đối đầy đủ các thiết bị đồ dùng dạy học, cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã đạt được một số kết quả trong quá trình giảng dạy của mình. Cụ thể: 1. Về kiến thức Học sinh nắm chắc những kiến thức cơ bản của các bài học dựa trên cơ sở tái hiện lại được các thí nghiệm của bài học. Có mở rộng và nâng cao một số kiến thức phù hợp cho đối tượng học sinh giỏi. 2. Về kĩ năng Học sinh có kĩ năng quan sát các hiện tượng và quá trình vật lí để thu thập các dữ liệu thông tin cần thiết. Kỹ năng sử dụng các dụng cụ đo lường Vật lí phổ biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm Vật lí đơn giản. Kĩ năng phân tích, xử lí các thông tin và các dữ liệu thu được để giải thích được một số hiện tượng Vật lí đơn giản, để giải các bài tập Vật lí đòi hỏi những suy luận lôgíc và những phép tính cơ bản cũng như để giải quyết một số vấn đề trong cuộc sống. Kỹ năng đề xuất các dự án hoặc các giả thuyết đơn giản về các mối quan hệ về bản chất của các hiện tượng hoặc sự vật Vật lí. Có khả năng đề xuất phương án thí nghiệm đơn giản để kiểm tra dự đoán hoặc giả thuyết đã đề ra. Có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác bằng ngôn ngữ Vật lí. 3. Về tình cảm thái độ Học sinh có hứng thú trong việc học tập bộ môn Vật lí cũng như áp dụng các kiến thức kĩ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng. Có thái độ trung thực tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác trong việc thu thập thông tin, trong quan sát và thực hành thí nghiệm. Có tinh thần hợp tác trong học tập, đồng thời có ý thức bảo vệ những suy nghĩ và việc làm đúng đắn. Kết quả chất lượng đại trà đạt được của các lớp giảng dạy trong những năm học từ 2006 đến 2009 như sau: Năm học Mức độ áp dụng biện pháp trên vào dạy học Chất lượng bộ môn ( Tính theo % ) trên trung bình. 2006-2007 Giáo viên đã triển khai thí nghiệm cho học sinh làm theo nhóm, nhưng chưa thường xuyên. 85% - 90% 2007-2008 Giáo viên có áp dụng các` biện pháp nêu trên nhưng chưa đầy đủ 90% 2008-2009 Giáo viên áp dụng đầy đủ các phương pháp dạy học vật lí cùng với ứng dụng của máy tính – công nghệ thông tin. 95%-98% C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: I) Kết luận: Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học đối với bộ môn vật lí thì việc hướng dẫn học sinh sử dụng dụng cụ thí nghiệm để thực hiện các thí nghiệm trong các tiết thực hành nói riêng và các thí nghiệm trong các bài học nói chung là vô cùng quan trọng. Nó quyết định đến sự thành công của bài dạy, quyết định trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Thí nghiệm vật lí trước hết là nguồn thông tin về thuộc tính của các sự vật và hiện tượng vật lí, phải tìm cách tiến hành thí nghiệm vật lí để thu được những thông tin đúng đắn về đối tượng cần tìm hiểu. Thí nghiệm vật lí gắn bó hữu cơ với tiến trình dạy học và phải nhằm mục tiêu là đạt tới nhận thức mới trong quá trình dạy học. Dạy học trong các tiết thực hành vật lí cần tuân theo qui trình sau: - Phải thảo luận để học sinh hiểu rõ mục tiêu của thí nghiệm và do đó tạo ra hứng thú nhận thức của học sinh. - Cho học sinh tìm hiểu đầy đủ chức năng của từng bộ phận có trong dụng cụ thí nghiệm được sử dụng. - Cho học sinh thảo luận về các bước của việc tiến hành, những yêu cầu quan sát hay đo đạc trong mỗi bước thí nghiệm này. Phải chuẩn bị các bảng ghi số liệu đo được hoặc biên bản ghi các quan sát các số liệu đo, lập biểu đồ, đồ thị. - Xử lí các kết quả thu được từ thí nghiệm, rút ra mối quan hệ giữa các quan sát, giữa các số liệu đo. Từ đó phát biểu kết luận về sự vật, hiện tượng hoặc quá trình vật lí như là những kiến thức mới. Ngày nay với khoa học công nghệ hiện đại, ngoài việc cho học sinh làm thí nghiệm trên đồ dùng thật, trên giấy, ta có thể đưa thí nghiệm mô phỏng trên máy vi tính, thí nghiệm quay lại bằng video clip. Các thí nghiệm đó đều có tác động tích cực tới việc nắm bắt kiến thức mới của học sinh. Theo tôi những thí nghiệm đơn giản, dễ làm, giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, qua đó học sinh có thể trao đổi học tập lẫn nhau, giúp học sinh tự khặng định mình, kiến thức các em ghi nhớ lâu hơn, học sinh hứng thú học tập, bài học trở nên nhẹ nhàng hơn, tiết học hiệu quả hơn. Hy vọng rằng áp dụng những biện pháp tôi vừa nêu trên sẽ ít nhiều giúp các thầy cô giáo bộ môn vật lí thực hiện các tiết thực hành vật lí tốt hơn, hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn trong mỗi bài dạy. Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi xuất phát từ việc giảng dạy trong thực tế, nó còn có nhiều hạn chế. Tôi mong sự đóng góp ý kiến đồng nghiệp để đề tài đạt hiệu quả hơn. II) Kiến nghị: 1) Đối với trường học: - Hằng năm cần bổ sung thêm các trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy, có kế hoạch thay thế các đồ dùng đã cũ, hỏng không còn sử dụng được hoặc sử dụng nhưng thiếu chính xác. - Bố trí phòng học chức năng, phòng học bộ môn tạo điều kiện tốt cho việc hoat động nhóm làm thí nghiệm của học sinh, giúp học sinh tích cực hoạt động. - Giáo viên phụ trách thí nghiệm đầu năm cần lên kế hoạch mua sắm, sửa chữa các đồ dùng thí nghiệm chất lượng không tốt, cùng hỗ trợ giáo viên chuẩn bị các thí nghiệm cho tiết dạy, và hỗ trợ giáo viên trong các giờ thực hành. - Tổ chức cho giáo viên học tập phần mềm để làm thí nghiệm mô phỏng, thí nghiệm ảo, khai thác mạng, để tìm kiếm dữ liệu phục vụ cho dạy học. 2) Đối với tổ chuyên môn: - Cần tổ chức các chuyên đề về cách dạy các bài khó có sử dụng thí nghiệm vật lí, các bài thực hành, thảo luận về các tình huống có thể xảy ra trong khi làm thí nghiệm. - Khi dự giờ tổ chuyên môn yêu cầu các giáo viên cần soạn bài kĩ trước khi dự giờ, chú ý quan sát thao tác giáo viên, học sinh làm thí nghiệm để kịp thời rút kinh nghiệm. - Đề nghị ban giàm hiệu trường có động viên khen thưởng đối với những giáo viên làm được những đồ dùng thí nghiệm có tính sáng tạo, sử dụng có hiệu quả cao. - Thường xuyên trao đổi cách làm thí nghiệm vật lí có hiệu quả cao. D. TÀI LIÊU THAM KHẢO: 1) Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên chu kì III (2002 – 2007) – Nhà xuất bản giáo dục. 2) Sách giáo khoa sách giáo viên vật lí 6, 7, 8, 9. – Nhà xuất bản giáo dục. 3) Phương pháp lấy học sinh làm trung tâm của PGS-PTS Tần Kiều – Viện khoa học giáo dục. Xuất bản năm 1997. Phước Cát 1, Ngày 01 tháng 10 năm 2009 Người viết Phan Sĩ Tướng
File đính kèm:
- skkn.doc