Sáng kiến kinh nghiệm Một số hình thức rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18-24 tháng
Trẻ 18-24 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, các mặt phát triển hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Giai đoạn này cơ thể trẻ hoàn toàn còn non nớt, rất nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt, trẻ rất dễ tổn thương về mặt tâm lý, nhu cầu về cảm giác an toàn rất lớn. Do đó, muốn rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được yêu mến, cảm giác được an toàn và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Bên cạnh đó, quan hệ của cô giáo đối với trẻ phải giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ - con, là người thay mẹ dạy trẻ. Vậy hoạt động lao động Sư phạm của cô giáo Mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt có sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ. Hoạt động lao động Sư phạm của cô giáo Mầm non có định hướng, có mục đích để tác động giáo dục vào sự phát triển của trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế, nghệ thuật của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để trở thành người bạn thực sự của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô giáo một cách tự nguyện, thoải mái và vui vẻ. Từ đó, giúp trẻ có được những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực và kiến thức. Đồng thời, hình thành và phát triển nhân cách tốt nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn.
Mầm non có định hướng, có mục đích để tác động giáo dục vào sự phát triển của trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế, nghệ thuật của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để trở thành người bạn thực sự của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô giáo một cách tự nguyện, thoải mái và vui vẻ. Từ đó, giúp trẻ có được những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực và kiến thức. Đồng thời, hình thành và phát triển nhân cách tốt nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn. Muốn thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ Mầm non phải được chú trọng thường xuyên, liên tục và không ngừng được đổi mới. Vì vậy, đội ngũ giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ Chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên được tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện việc chăm sóc- giáo dục trẻ, đặc biệt là rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt kết quả cao. Nếu cứ thực hiện theo phương pháp cũ mà trước kia đã thực hiện thì sẽ không đưa lại hiệu quả cao như mong đợi, tính chủ động tích cực sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo của trẻ, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ sẽ thấp, nó sẽ phát triển một cách thụ động.Vì vậy, chỉ có Đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ thì mới tạo ra được môi trường hoạt động tốt và tạo ra những cơ hội tốt nhất cho trẻ phát huy khả năng chủ động, sáng tạo một cách triệt để. Trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ 18-24 tháng tuổi, nếu cô tạo điều kiện cho trẻ được trãi nghiệm dưới nhiều hình thức, thông qua mọi hoạt động hàng ngày ở mọi lúc, mọi nơi...thì việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ sẽ được thuần thục hơn, kết quả sẽ đạt cao hơn. II. Cơ sở thực tiễn: Ý thức được việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ trong độ tuổi Mầm non là vô cùng quan trọng. Do vậy, trường Mầm non TT Lệ Ninh đã quán triệt và bồi dưỡng về vấn đề này đến tận đội ngũ. Trong năm học 2011-2012 nhà trường cũng đã chú trọng nhiều đến việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ và phổ biến cụ thể đến từng giáo viên. Là giáo viên trực tiếp đứng lớp nhà trẻ 18-24 tháng, qua quá trình thực hiện tôi nhận thấy những thuận lợi, khó khăn sau: 1. Thuận lợi: - Bản thân luôn nhận được sự quan tâm của cán bộ Chuyên môn Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự lãnh đạo của địa phương và bạn bè đồng nghiệp. - Bản thân tham gia tập huấn đầy đủ các chuyên đề, cập nhật thông tin kịp thời về đổi mới của ngành học Mầm non, trong đó có chuyên đề lễ giáo, chuyên đề vệ sinh dinh dưỡng... 2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi tôi đã nêu ở trên, trong quá trình thực hiện, bản thân tôi gặp không ít những khó khăn nhất định như sau: - Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi này lời nói đang phát triển, vì vậy khả năng giao tiếp về ngôn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Trẻ sống trong môi trường gia đình được nuông chiều, muốn gì được nấy, tất cả các cháu đều mới nhập học. Do đó, khi đến trường tất cả đều hoàn toàn mới, xa lạ với trẻ, trẻ chưa quen với nề nếp thói quen của lớp, tính rụt rè, nhút nhát, cá tính...còn nhiều ở trẻ. - Phòng học mượn, nhỏ hẹp và còn tạm bợ nên ảnh hưởng trong việc tổ chức các hoạt động. - Lớp học chỉ một mình tôi đảm nhiệm với số lượng 12 cháu nên khi thực hiện tổ chức hoạt động còn gặp khó khăn trong bao quát trẻ. - Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều, cho rằng lứa tuổi bé việc rèn luyện nề nếp, thói quen chưa quan trọng đối với trẻ. 3. Điều tra thực tiễn: - Đặc điểm tình hình của lớp: +Tổng số trẻ: 12 cháu: Trong đó: 6 trẻ nam và 6 trẻ nữ +Dân tộc: Kinh Để biết được nề nếp, thói quen ban đầu của trẻ, vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát kết quả cụ thể như sau: Bảng khảo sát kết quả đầu năm về nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ TT Nội dung Tỷ lệ 1 Trẻ có thói quen nề nếp đi học chuyên cần 6/12 - 50% 2 Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép và vâng lời người lớn 4/12 - 33,3% 3 Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh sạch sẽ, đúng nơi quy định 2/12-16,7% 4 Trẻ có nề nếp biết ăn sạch sẻ, tự phục vụ bản thân 3/12- 25% 5 Trẻ có thói quen nề nếp giờ ngủ nằm im lặng, biết lấy và cất gối đúng nơi quy định 2/12-16,7% 6 Trẻ có thói quen nề nếp thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong 2/12-16,7% 7 Trẻ có nề nếp giờ học không nói chuyện, tích cực tham gia vào hoạt động 2/12-16,7% 8 Trẻ có thói quen nề nếp giờ chơi không tranh giành đồ chơi, không đánh bạn, đoàn kết với các bạn khi chơi 3/12- 25% Với kết quả như trên, bản thân tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, tìm tòi ra một số hình thức phù hợp để từng bước nhằm rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18-24 tháng tuổi đạt kết quả cao. III. Biện pháp thực hiện: 1. Nghiên cứu tham khảo, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ Chuyên môn và khả năng nắm bắt về việc rèn luyện nề nếp , thói quen cho trẻ 18-24 tháng tuổi. - Luôn học tập và nghiên cứu các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết và “Quy chế nuôi dạy trẻ” của cấp trên đề ra để có kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn. - Tham gia các buổi tập huấn chuyên môn do Phòng, Cụm liên trường và nhà trường tổ chức. - Thường xuyên tìm tòi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của việc đưa trẻ vào nề nếp, thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. - Tham gia tốt các đợt thao giảng, dự giờ bạn đồng nghiệp để học hỏi thêm kinh nghiệm về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho bản thân. - Thường xuyên rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ phù hợp, đúng quy trình của độ tuổi 18-24 tháng. 2. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp. Bên cạnh việc thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ là vấn đề trọng tâm thì cô giáo cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nề nếp thói quen ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế, mọi hoạt động trong ngày của trẻ tôi đều phải nghiên cứu, lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý: - Trẻ hiếu động cá biệt ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát. - Trẻ nhút nhát, chậm chạp ngồi cạnh trẻ mạnh dạn và nhanh nhẹn. - Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình. - Trẻ hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan. Cô động viên khích lệ kịp thời sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá biệt khi thấy trẻ ngoan hơn. 3. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều Đồ chơi đẹp có tính sáng tạo. Trẻ Mầm non nói chung và trẻ 18-24 tháng tuổi nói riêng đến lớp trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức: “Học mà chơi, chơi mà học”, học ở mọi lúc mọi nơi. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ thì bản thân tôi không ngừng sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để làm Đồ dùng, Đồ chơi đảm bảo tính thẩm mĩ, sáng tạo hấp dẫn, đảm bảo tính an toàn cho trẻ sử dụng hợp lí, phù hợp với nội dung, với độ tuổi. Đồ dùng, đồ chơi sắp xếp gọn gàng, vừa tầm với trẻ dễ thu hút trẻ vào hoạt động một cách thoải mái và vui vẽ. Ví dụ: Cháu mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ Bố, Mẹ, nhớ người thân...tôi có thể bế cháu đến các góc chơi cho trẻ xem tranh vẽ cảnh: Cô và các bạn đang xếp nhà cho Búp Bê. Để trẻ tập trung vào xem tranh mà quên đi nỗi nhớ nhà thì tôi có thể đàm thoại với trẻ, chỉ vào hình ảnh và hỏi trẻ: “Tranh vẽ về ai đây? Còn đây là ai? Cô giáo và các bạn đang làm gì? Con thấy các bạn chơi có vui không? Bây giờ, cô và con cùng chơi xếp nhà cho em Búp Bê nhé!” Hoặc tôi có thể bế cháu đến đưa cho cháu chơi đồ chơi do chính tay cô làm ra như cái quạt điện làm từ hộp bạc hà, xê sũi, phim Xquang...rất gần gũi với trẻ, tôi hướng dẫn cháu chơi và trò chuyện với trẻ: “Cô bật quạt quay cho mát nhé! Cô đố con cái gì đây? Ở nhà con có quạt không? Quạt để làm gì? Bây giờ, cô cháu mình cùng bật quạt ru em Búp Bê ngủ nhé!...” Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày giúp trẻ hứng thú hơn tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động sinh động hơn và hứng thú hơn. Đây cũng là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng tham gia hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. 4. Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Động viên, khuyến khích giúp cho trẻ thêm tự tin, hy vọng và có lòng tin để nhìn thẳng vào hoàn cảnh. Động viên cũng là một cách giúp đỡ rất hiệu quả làm cho trẻ tăng thêm niềm tin, tính kiên trì và chủ động. Khi động viên trẻ, tôi chú trọng đến các phương pháp như biểu dương, tán thưởng những thành tích trẻ đã đạt được và khuyên bảo tôi dùng lời lẽ khéo léo và thái độ tình cảm để thương lượng thuyết phục trẻ. Ví dụ: Tôi nói: “ Con chịu khó nhé! Khi nào quen rồi thì con sẽ cảm thấy rất dễ dàng”. Tỏ rõ lòng tin: Tôi tin là trẻ làm được công việc gì thì tôi kiên quyết hướng dẫn trẻ làm và tỏ rõ cho trẻ thấy được là cô tin tưởng ở trẻ. Ví dụ: Tôi nói: “ Con làm được đấy! Cô biết mà!” Thiết tha yêu cầu: Khi tôi muốn trẻ làm một công việc nào đó trong hoạt động hàng ngày của trẻ tại lớp học thì tôi yêu cầu trẻ một cách dịu dàng và có tính mời mọc. Ví dụ như nói: “ Các con ơi, giúp cô với nào!” Trẻ ở giai đoạn này hay tò mò, thích bắt chước do đó mà tôi thường xuyên nêu gương tốt thông qua các hoạt động của trẻ diễn ra trong ngày. Tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng khi khen trẻ. Khen và chê có tác dụng mạnh đến hành vi vâng lời của trẻ, do vậy tôi thường khen những gương tốt để trẻ bắt chước. Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc áo quần sạch đẹp, đầu tóc gọn gàng. Biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè. Nếu có trẻ đi học còn khóc nhè...thì cô có thể nói: “Lần sau con đi học ngoan, không uốn mẹ nữa để được cô khen giống bạn... nhé! Khi con ngoan không khóc cô thấy con xinh hơn đấy! Các bạn có thấy bạn... ngoan không nào!” Cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo, không nghe lời cô giáo do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ ... tôi dựa vào lúc có điều kiện để giúp trẻ có thể học tập, bắt chước gương tốt. Tôi đã tranh thủ cơ hội đó để thay đổi trẻ bằng mọi hình thức. Từ sự giúp đỡ của cô giáo mà tính nhõng nhẽo của trẻ mất dần. Được cô tạo điều kiện giúp đỡ, được rèn luyện mà trẻ đã thực sự hoà nhập vào nề nếp, khuôn khổ của tập thể lớp một cách thoải mái, dễ dàng và tự tin. 5. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi. Hàng ngày, các cháu đến lớp với các nội dung hoạt động: Giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập vui chơi, giờ đón - trả trẻ...mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này, để đưa các cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản, không chỉ là ngày một ngày hai mà cả một thời gian dài và liên tục. Thực tế các cháu còn rất bé chưa có ý thức được như các anh chị lớn tuổi, điều này cũng là thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên, cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai của con trẻ, phải luôn nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương trẻ, coi trẻ như con của mình để uốn nắn trẻ. Ngoài ra, thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện...trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, tôi cũng có thể lồng ghép đưa vào mọi lúc phần nào giúp trẻ liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo hơn từ đó có thói quen nề nếp tốt hơn.. Ví dụ: - Rèn cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như: Bé ngoan, Lời chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào, Nu na nu nống; Thông qua bài thơ: Miệng xinh, Chào; Hoặc thông qua câu chuyện: Cháu chào ông ạ! - Thông qua bài thơ, bài hát giúp trẻ hình thành thói quen thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong như: “ Bạn ơi hết giờ rồi. Nhanh tay cất đồ chơi. Nhẹ tay thôi bạn nhé! Cất đồ chơi đi nào!” Hoặc: “ Giờ chơi hết rồi. Nào các bạn ơi! Ta cùng cất dọn Đồ dùng đồ chơi Vào nơi quy định.” - Qua bài thơ, bài hát, câu chuyện rèn cho trẻ thói quen khi ăn, khi ngủ như: Bài hát: Giờ đi ngủ. Bài thơ: Giờ ăn. Bài thơ: Giờ ngủ - Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua bài thơ: “Rửa tay sạch” 6. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia đình. Thông qua các buổi Hội nghị cha mẹ học sinh hàng tháng và hàng quý hoặc vào giờ đón - trả trẻ hàng ngày và cập nhật các thông tin trên bảng “Những điều cha mẹ cần biết”; Phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, những bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo dục phù hợp; Đóng góp nguyên vật liệu cùng làm đồ chơi phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt. Thường xuyên chú trọng tuyên truyền rộng rãi với các bậc phụ huynh về sự cần thiết của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ ở độ tuổi này. Từ đó, phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên để trao đổi nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm nguyên nhân từ đó thống nhất giải pháp thích hợp, kịp thời uốn nắn, rèn luyện trẻ lúc ở nhà cũng như ở trường. Giúp việc rèn luyện nề nếp thói quen theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. 7. Rèn luyện bằng tình cảm của cô đối với trẻ. Đa số trẻ ở độ tuổi này chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ, yêu thương của bố mẹ, gia đình và những người thân yêu quanh bé nên khi mới nhập lớp các cháu còn mang một tâm trạng lưu luyến nhớ bố mẹ và những người thân. Khi đến lớp quanh bé đều lạ lẫm, lúc này bé rất cần tình cảm sự âu yếm, nhẹ nhàng. Do đó, cô phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, sự ấm áp, được quan tâm, được yêu mến, cảm giác được an toàn và có thể xem mình là một thành viên trong gia đình nhỏ mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối với trẻ giàu cảm xúc thân thiết như quan hệ mẹ - con. Cô luôn tôn trọng và đồng cảm tạo nên không khí vui tươi, cởi mở, lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia vào sinh hoạt một cách thoãi mái và tự tin. Ví dụ: Những ngày đầu trẻ mới đến lớp còn bở ngỡ có khi trẻ còn khóc, tôi bế trẻ âu yếm vỗ về trò chuyện, hát đọc thơ cho trẻ nghe và cho trẻ xem tranh, kể chuyện qua tranh cho trẻ nghe. Thông qua nội dung các bức tranh với lời kể nhẹ nhàng đầy tình cảm cuốn hút trẻ vào câu chuyện để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà, gây cho trẻ lòng ham muốn đến lớp được múa hát, vui chơi và được nghe cô kể chuyện . Hay những buổi đầu trẻ ăn cơm tại trường, ngủ tại trường trẻ còn bướng bĩnh, uốn vặn. Tôi phải ân cần, dỗ dành bón từng thìa cơm, thìa cháo, ẵm và ru trẻ vào giấc ngủ. Ngày qua ngày, trẻ đã quen với giờ ăn thì tôi hướng dẫn, khuyến khích trẻ ngồi vào bàn tự cầm thìa xúc cơm ăn và giờ ngủ thì nằm vào đúng gối của mình để ngủ, khi ngủ dậy biết tự mình xếp gối vào tủ gọn gàng. IV. Những kết quả bước đầu và bài học kinh nghiệm. 1. Những kết quả bước đầu: Qua quá trình cố gắng và đưa hết khả năng của mình vào thực hiện các hình thức rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18-24 tháng tuổi, cộng với sự ủng hộ của các giáo viên trong trường, cùng với sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, sự phối hợp của các bậc phụ huynh, gia đình cũng như các Ban - Ngành. Tôi đã sử dụng các biện pháp nói trên một cách hợp lý nên đến nay trẻ đã thực sự thích được đến lớp, có nề nếp tham gia vào các hoạt động, mạnh dạn và tự tin, biết làm một số việc đơn giản phục vụ bản thân, có thói quen chào hỏi, vâng lời bố mẹ và cô giáo...cụ thể: TT Nội dung Tỷ lệ 1 Trẻ có thói quen nề nếp đi học chuyên cần 12/12- 100% 2 Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép và vâng lời 12/12-100% 3 Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh sạch sẽ, đúng nơi quy định 12/12-100% 4 Trẻ có nề nếp biết ăn sạch sẽ, tự phục vụ bản thân 11/12- 91,7% 5 Trẻ có thói quen nề nếp giờ ngủ nằm im lặng, biết lấy và cất gối đúng nơi quy định 12/12-100% 6 Trẻ có thói quen nề nếp thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong 11/12- 91,7% 7 Trẻ có nề nếp giờ học không nói chuyện, tích cực tham gia vào hoạt động 12/12-100% 8 Trẻ có thói quen nề nếp giờ chơi không tranh giành đồ chơi, không đánh bạn, đoàn kết với các bạn khi chơi 11/12- 91,7% Những kết quả đạt được ở trên không phải làm tôi mãn nguyện mà tôi sẽ lấy đó làm động lực thôi thúc mình cố gắng hơn nữa để rèn luyện nề nếp, thói quen cho con trẻ trong những năm học tiếp theo. 2. Một số bài học kinh nghiệm: Từ việc thực hiện áp dụng các hình thức rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ ở nhóm 18-24 tháng, tôi đã thu được nhiều kết quả đáng phấn khởi. Qua đây, bản thân tôi cũng đã rút ra một số kinh nghiệm giúp rèn luyện nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ đạt kết quả tốt như sau: 1. Muốn rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ được tốt thì trước hết cô giáo phải không ngừng tự học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, thao giảng, dự giờ để đúc rút kinh nghiệm cho bản thân. Tìm tòi sách báo nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ. 2. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp. Đặc biệt quan tâm đến trẻ cá biệt không kỳ thị giữa trẻ này với trẻ khác. 3. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều đồ chơi đẹp có tính sáng tạo, đẹp, gần gũi với trẻ và phù hợp với nội dung với độ tuổi của trẻ. Thực sự yêu nghề mến trẻ, tận tâm, hăng say với nghề. 4. Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, lời ăn tiếng nói phải mẫu mực, hành vi văn hoá. Khen chê đúng mực và biết tôn trọng trẻ. 5. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi. Cô tạo mọi cơ hội cho trẻ được tự làm một số việc phù hợp với khả năng của trẻ. 6. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia đình để tìm ra nguyên nhân và thống nhất cách dạy trẻ tốt nhất. 7. Rèn luyện bằng tình cảm của cô đối với trẻ. Cô giáo là người bạn của trẻ khi vui chơi, là tình mẹ - con khi ăn, khi ngủ. C. KẾT LUẬN Để đạt được mục tiêu đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa có đủ đức, đủ tài. Ngành học Mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung. Vậy, làm thế nào để cho trẻ em trưởng thành và phát triển được như mong muốn trong lời Bác đã nói: “ Trẻ em như búp trên cành Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan” là cả một công trình lớn nhằm khai thác hết tiềm năng để hướng trẻ đến sự phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ, hình thành cho trẻ những cơ sở đầu tiên về giáo dục nhân cách làm hành trang trong suốt giai đoạn về sau của trẻ. Như vậy, chúng ta cần phải biết phối kết hợp rộng rãi và chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để thống nhất việc chăm sóc nuôi dạy các cháu theo kiến thức khoa học. Là giáo viên Mầm non cần nhận thức được rằng: “ Làm Mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”. Phải thật sự nhiệt tình say mê với công việc, có tấm lòng yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng giữa các trẻ. Xuất phát từ thực tiễn, nhằm đáp ứng được yêu cầu của ngành học Mầm non theo định hướng đổi mới. Với những biện pháp tôi đã thực hiện trên trẻ ở độ tuổi 18-24 tháng trong năm học này giúp trẻ trong lớp có được nề nếp, thói quen tốt nhất. Vì đề tài này được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm trẻ. Do đó, một số kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi những thiếu sót. Qua đây, tôi rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng bổ sung của các cấp lãnh đạo Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường cùng các bạn đồng nghiệp giúp tôi có được bài học kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng trong quá trình công tác của bản thân, đặc biệt nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 18-24 tháng tuổi nói riêng và trẻ trong độ tuổi Mầm non nói chung được tốt hơn. Trân trọng cảm ơn những đóng góp của Hội đồng Chuyên môn Nhà trường và Hội đồng Thi đua của Ngành! Lệ Ninh, ngày 19 tháng 05 năm 2012 Xác nhận của HĐKH trường MNTT Lệ Ninh Người viết Trần Thị Thanh Hương Xác nhận của HĐKH Phòng giáo dục đào tạo Lệ Thuỷ
File đính kèm:
- Mot_so_hinh_thuc_ren_ne_nep_thoi_quen_cho_tre_24_-_36_thang.doc