Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học Lớp 7

Nói đến dạy học là một công việc vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Do đó đòi hỏi người giáo viên cần có năng lực sư phạm vững vàng, phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập phân môn Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên. Ngoài việc lên lớp người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm tòi tài liệu có liên quan để làm sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dể hiểu, phù hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh.

Hướng đổi mới phương pháp dạy học Toán hiện nay ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỷ năng vận dụng kiến thức vào thự tiễn: tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt là trong năm học này toàn ngành giáo dục đang ra sức thực hiện cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập.

 

doc13 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 2753 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: 
Mở đầu
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH của quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục. Với trang thiết bị, phương tiện dạy học ngày càng đầy đủ và hiện đại , phục vụ thiết thực cho việc dạy học nhưng vấn đề cần quan tâm ở đây là việc nâng cao chất lượng dạy và học. Khi mà hình thức dạy học, phương tiện dạy học, đối tượng dạy học đã thay đổi thì việc cần phải thay đổi phương pháp học tập mới cho phù hợp là điều tất yếu. Đặc biệt là đối với bộ môn toán là một môn khoa học tự nhiên, phát huy tính tích cực tự giác của học sinh, phát huy khả năng tự học, nhằm hình thành cho học sinh tính tư duy tích cực sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập lòng say mê và có ý thức vươn lên trong học tập. Bắt nguồn từ định hướng đó giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt cao nhất .
- Xuất phát từ mục tiêu giáo dục phổ thông nói chung và tầm quan trọng của môn toán học THCS nói riêng. Giáo dục phổ thông nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, không những nâng cao hiểu biết về kiến thức về môn toán mà còn làm cơ sở cho nhiều môn học khác
 - Xuất phát từ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp là phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Học sinh phải là chủ thể của hoạt động học, dưới sự thiết kế, giám sát và hướng dẫn của thầy giáo thì học sinh phải chủ động thi công, giải quyết vấn đề thông qua trao đổi, tranh luận. Có như vậy các em mới có điều kiện khắc phục khó khăn tiếp nhận kiến thức mới.
- Xuất phát từ tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 7 là lứa tuổi nhạy cảm hiếu động ham thích tìm tòi và khám phá. Nếu giáo viên gây được hứng thú trong bài dạy sẽ tạo cho học sinh sự phấn chấn, hào hứng để tiêp thu bài học một cách có hiệu quả.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS MaiThủy tôi thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức cơ bản của phân môn Hình học, chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã có những ý kiến như: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn, đòi hỏi các em phải có đầu óc tưởng tượng, phán đoán, suy luận thật chính xác khi đó việc tiếp thu bài học mới có hiệu quả Điều đó nãy sinh trong tôi những trăn trở: Là làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Có biện pháp gì để tạo hứng thú say mê tìm tòi sáng tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn? Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn hình học lớp 7”
Phần II: 
 Nội dung đề tài
I .Cơ sở khoa học:
Nói đến dạy học là một công việc vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Do đó đòi hỏi người giáo viên cần có năng lực sư phạm vững vàng, phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập phân môn Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên. Ngoài việc lên lớp người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm tòi tài liệu có liên quan để làm sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dể hiểu, phù hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh.
Hướng đổi mới phương pháp dạy học Toán hiện nay ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỷ năng vận dụng kiến thức vào thự tiễn: tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt là trong năm học này toàn ngành giáo dục đang ra sức thực hiện cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập. 
II. Cơ sở thực tiễn .
Trong trường THCS môn Toán được coi là môn khoa học luôn được chú trọng nhất và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Đặc biệt phải khẳng định là phân môn hình học có nhiều khái niệm trừu tượng nhất, Đặc biệt môn hình học lớp 7 bước đầu làm quen các phương pháp trong chứng minh hình học đó là từ quan sát hình vẽ ghi giả thiết , kết luận, phải biết suy luận từ những điều đã biết để đi đến những điều cần chứng minh, hình thành cho các em con đường chứng minh toán học, biết nhìn nhận hình vẽ để chứng kiến thức, lượng bài tập trong một tiết học phong phú và nhiều dạng khác nhau rất nhiều so với nội dung lý thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ lôgic. 
- Trong phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rỏ ràng và thường đã có sẵn thuật toán học sinh chỉ việc vận dụng toán vào giải chẳng hạn như: khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia hai số hữu tỉ, khi chia đa thức một biến đã sắp xếp. Còn với phân môn Hình học thì lí thuyết ít, lại trừu tượng, ít đưa ra các hướng đi nên học sinh rất khó để có thể định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức và lượng bài tập với thời gian luyện tập cho học sinh lại quá lớn. Do đó, rất khó khăn trong việc chọn bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẩn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà sách yêu cầu.
- Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ miễn cưỡng, chán nản của các em. Trong một tiết luyện tập thường học sinh vận dụng một cách máy móc, hoặc chỉ dựa vào những bài tập mẫu, bài sữa của giáo viên và của các bạn trong lớp sao chép lại, những bài tập khó hay bài tập không có bài mẫu thì các em để trống, không chịu suy nghĩ dần già tự cho mình tính lười, không học hỏi, không biết phân tích xem bài toán đó mình đã gặp hay chưa, có thuộc dạng mình đã học hay không, nó nâng cao thêm điều gì. Từ những bài toán đầu tiên dễ đến những bài toán khó, từ ý thức lười nhắc đến không có ý thức làm bài tập, càng ngày càng không yêu thích môn học, dẫn đến ghét, học sút và cuối cùng là học kém. Có một số học sinh vì sợ giáo viên nhắc nhỡ nên vẫn làm bài tập nhưng việc làm bài tập là cho có lệ. Từ đó, nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập về nhà chỉ để đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình, không biết vẽ hình bắt đầu từ đâu Điều này cho thấy mỗi giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng.
III. Các biện pháp đã thực hiện:
1/ Gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học:
Rõ ràng ngay từ bước chân của giáo viên vào lớp với thái độ vui vẻ thân mật đối với học sinh, việc đánh giá công bằng trong kiểm tra miệng cũng là những yếu tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước vào bài học mới, bên cạnh đó giáo viên cần phải giải quyết những thắc mắc hay những vấn đề hs chưa rỏ cũng tạo cho các em tâm lý thoái mái và tinh thần chuẩn bị bước vào bài học mới nhưng sự hứng thú học tập của học sinh chỉ thực sự bắt đầu với phần giới thiệu bài mới. 
2/ Gây hứng thú từ việc giới thiệu bài học mới:
 Nhìn chung trong tất cả các tiết dạy trước hết giáo viên phải xác định đúng kiến thức cơ bản nhất của tiết học , đó là một khái niệm( định nghĩa) hoặc 1 tính chất(định lý) hoắc một phương pháp( quy tác)... Trên cơ sở đó giáo viên chọn cách nhập vào bài tùy đối tượng học sinh , tùy thuộc vào dạng bài học để có thể linh hoạt một cách sáng tạo qua một số cách vào bài. Đây là vấn đề không kém phần quan trọng vì vấn đề mà giáo viên đật ra càng khó khăn liên quan đến toán học, gây được sự tò mò của các em bao nhiêu thì nhu cầu cần khám phám, chiếm lĩnh kiến thức càng lớn, tuy nhiên vấn đề đặt ra phải có cơ sở và phải tạo được niềm tin cho các em. Sau đó cho các em dự đoán các khả năng xảy ra, hay các cách trả lời khác nhau muốn biết bạn nào dự đoán đúng hay trả lời đúng thì phải nắm được kiến thước bài học hôm nay có như thế mới tạo cho các em tâm lý thoải mái tự tin trước khi vào học bài mới. Thông thường dựa vào dạng bài mà giáo viên có thể lựa chọn các cách vào bài: 
Thông qua việc kiểm tra bài cũ
Kết hợp với việc ôn tập lại kiến thức trong chương
Dựa vào bài tập
Dựa vào một số ứng dụng trong đời sống hay trong kỹ thuật
Dự đoán các trường hợp có thể xảy ra như thế nào
Giới thiệu cách giải khác so với các cách đã học tiết trước
Nêu tình huống tìm hiểu giải quyết một vấn đề nào đó thì cần nắm kiến thức nào trong tiết học này
VD1: Khi dạy bài: Trường hợp bằng nhau của tam giác góc – cạnh – góc: giáo viên làm như sau:
- Vẽ hai tam giác ABC và tam giác A’B’C rồi biểu diễn cạnh AB = A’B’,góc A = góc A’ , giáo viên yêu cầu học sinh thêm các yếu tố bằng nhau nào nữa để hai tam giác bằng nhau
- Biểu diễn thêm hai yếu tố bằng nhau là góc B và góc B’, Yêu cầu học sinh dự đoán xem khi đó hai tam giác ABC và A’B’C’ có bằng nhau không?
VD2: Khi dạy bài “ Tính chất ba đường trung tuyến của tam giác” giáo viên chuẩn bị một tấm bìa hình tam giác và một giá đở có kim nhọn, yêu cầu học sinh đặt tấm bìa trện kim nhọn mà không bị rơi, sau đó giáo viên đặt lên sao cho tấm bìa vẫn nằm thăng bằng rồi nêu vấn đề đặt ra?
VD3: Khi dạy bài” Tính chất đường trung trực của một đoạn thẳng”
 Giáo viên nêu câu hỏi: Nêu định nghĩa đường trung trực của một đoạng thẳng? Vẽ đường trung trực của đoạn thẳng AB?
 Sau khi thực hiện xong các yêu cầu trên, giáo viên lấy điểm M nằm trên đường trung trực đó rồi yêu câu học sinh dự đoán độ dài hai đoạn thẳng MA và MB? 
Từ đó giáo viên đặt vấn đề vào bài học mới.
VD4: Bài “ Tam giác cân”
Giáo viên nêu bài tập kiểm tra bài cũ: Giải bài toán sau:
A
Cho tam giác ABC có góc B = C , tia phân giác của góc A cắt BC tại D. Chứng minh rằng: 
 a) ADB = ADC
 b) AB = AC
 B D C
 Hs thực hiện các hoạt động sau:
+ HĐ thể hiện: Vẽ hình
+ HĐ phân tích: Viết giả thiết – kết luận
+ HĐ chứng minh: Hai tam giác ABD và ADC
 Có: góc B = góc C(gt)
 AD : cạnh chung
 góc BAD = góc DAC( AD là tia phân giác)
 Vậy : ADB = ADC (g.c.g)
+ HĐ trí tuệ: suy ra AB = AC
GV giới thiệu tam giác ABC gọi là tam giác cân mà ta sẽ học hôm nay.
 3/ Gây hứng thú trong việc xây dựng kiến thức mới :
 Trong quá trình giải quyết vấn đề và xây dựng kiến thức mới thì học sinh tự xác định kiến thức dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên nên câu hỏi hay bài tập đưa ra phải có thời gian nhất định để cho tất cả học sinh tư duy hay cùng làm, sau đó mới yêu cầu trả lời và cùng đi đến kết quả. Muốn vậy thì hệ thống câu hỏi phải rỏ ràng , dễ hiểu, gây ấn tượng , nhớ lâu, các bài tập đưa ra phải được lựa chọn đặc trưng, phù hợp, tránh những câu hỏi vụn vặt, hoặc quá khó, bài tập quá phức tạp, rườm , các câu hỏi gợi mở, câu hỏi tổng quát phải tác động đến tất cả các đối tượng học sinh . Trong thời gian học sinh tư duy làm bài tập giáo viên cần chú ý bao quát lớp để cần thiết có thể yêu cầu học sinh yếu hoặc lười học phải trả lời theo một mức độ nào đó nhằm kích thích cho các em có thói quen tập trung vào xây dựng nội dung bài học, thông thường giáo viên yêu cầu học sinh yếu đọc định nghĩa, tính chất hay nêu các yếu tố đã bằng nhau của hai tam giác
Khi dạy bài “ Trường hợp bằng nhau thứ ba của tam giác góc- cạch – góc” sau khi yêu cầu học sinh vẽ tam giác A’B’C’ có góc B = 600, BC = 4em, góc C = 400 ở ?1, giáo viên yêu cầu học sinh yếu lên bảng đo độ dài cạnh AB và cạnh A’B’, so sánh AB và A’B’
Khi giáo viên yêu cầu tất cả học sinh làm ?2, nên cho học sinh yếu nêu các yếu tố bằng nhau đã biết của hai tam giác.
Cần hình thành cho các em phương pháp phân tích đi lên, đây là phương pháp đặc trưng trong việc giải phân môn hình học
VD: Cho tam giác ABC, M là trung điểm của BC. Trên tia đối của tia MA lấy điểm E sao cho ME = MA. Chứng minh rằng AB // CE?
 Phương pháp phân tích như sau
 AB // CE 
 BAM = CEM và ở vị trí so le trong
 ABM = ECM ( c.g.c)
 AM = ME ( gt) ; M1 = M2 ( hai góc đối đỉnh) ; AM = ME (gt)
Dựa vào sơ đồ phân tích đi lên đó giáo viên hướng dẫn học sing cách chứng minh, dần dần hình thành cho hoc sinh thói quen lập sơ đồ phân tích rồi chứng minh hình học.
5/ Tạo hứng thú cho học sinh khi vẽ hình. 
- Học phân môn Hình học thì một yếu tố rất quan trọng là học sinh phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào trước? Yếu tố nào sau? Ký hiệu như thế nào? Khi vẽ thì cần dụng cụ gì?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới.
- Khi vẽ hình cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang ký hiệu hình học.
- Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể:
+ Rèn cho học sinh có thói quen ký hiệu trên hình vẽ các trường hợp: Điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ sung các yếu tố phụ trên hình
+ Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ:
Êke: Vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song
Compa: Vẽ đường tròn, hình tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau, 
Thước thẳng: Vẽ đường thẳng
Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình học đó là sử dụng phấn màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lý ở các điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ hình vẽ.
VD1: Cho tam giác ABC , Trung tuyến AM. Thì học sinh phải vẽ tam giác ABC là tam giác thường, lấy M là trung điểm của đoạn thẳng BC biểu diễn các đoạn thẳng bằng nhau trên hình vẽ
 A
 B M C
VD2: Tam giác cân là tam giác có hai cạnh bên bằng nhau do đó khi vẽ tam giác cân học sinh phát hiện ra cách dùng compa vẽ cung tròn tâm A, sau đó lấy 2 điểm bất kỳ trên cung tròn đó, nối các điểm lại ta được tam giác cần vẽ:
 A
 r
 B C
 - Vẽ cung tròn tâm A, bán kính r
Lấy B, C nằm trên cung tròn tâm A
Kẻ các đoạn thẳng AB, AC ta được tam giác cân ABC cần vẽ
 Giáo viên vừa thuyết trình vừa thể hiện từng bước vẽ lên bảng học sinh quan sát và thực hiện theo vào vở
Thực hiện cách vẽ tam giác đều:
Vẽ đoạn thẳng BC bằng thước thẳng
Vẽ cung tròn tâm B bán kính BC, cung tròn tâm C bán kính BC
Hai cung tròn này cắt nhau tại A
Kẻ đoạn thẳng AC, AB 
Tam giác ABC là tam giác đều cần vẽ
 Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng và phù hợp các dụng cụ vẽ, biểu diễn các yếu tố bằng nhau trên hình vẽ từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biệt.
 Chẳng hạn:
 + Cho tam giác ABC thì vẽ không nên vẽ cân, vuông hay đều.
 + Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB.
 6 / Tạo hứng thú cho học sinh khi sử dụng các phương tiện, thiết bị, các dụng cụ trực quan. 
 Tùy thuộc theo nội dụng kiến thức bài học để tổ chức cho học sinh sử dụng linh hoạt những phương tiện, thiết bị dạy học như: sách giáo khoa, bảng lớp , vở nháp, dụng cụ trục quan, phiếu học tập, cũng như vấn đề phân nhóm học sinh học tập trên lớp. Phải tận dụng tối đa việc sử dụng các thiết bị dạy học hiện có hoặc tự làm
VD: Khi dạy bài “ Hai đường thẳng vuông góc” yêu cầu học sinh dùng giấy gấp để phát hiện hai đường thẳng vuông góc, và khi có một góc vuông thì các góc còn lại củng là góc vuông.
 Sau khi nắm được định nghĩa đường trung trực của đoạn thẳng, yêu cầu các em gấp giấy để xác định đường trung trực của đoạn thẳng AB.
 Trong vấn đề phân nhóm thì phải đảm bảo nội dung giữa các nhóm tương đương nhau, các thành viên trong nhóm phải được tham gia đầy đủ dưới sự hướng dẫn của nhóm trưởng tránh tình trạng các học sinh khá giỏi thực hiện còn học sinh yếu kém không tham gia.
IV: kết quả:
Thời gian kiểm định chưa nhiều song bước đầu đem lại những thành công nhất định.
 - Học sinh đỡ lúng túng hơn khi tiếp thu kiến thức mới
 - Các em chủ động sáng tạo hơn trong trong việc nắm kiến thức.
 - Khả năng tiếp thu kiến thức mới đối với học sinh nhanh hơn, vững chắc hơn và có khả năng vận dụng vào các bộ môn khác cũng như vào thực tiễn tôt hơn.
 - Đắc biệt đã hình thành cho các em thói quen và có nhu cầu giải quyết vấn đề , nhưng để làm được việc đó thì các em có sự hứng thú và phải nắm vững phương pháp giải bài tập hình học, từ đó mà kiến thức cũ được khắc sâu, kiến thức mới được lĩnh hội một cách chắc chắn, chuổi kiến thức được liền mạch gây nên sự hứng thú say mê và ngày càng yêu thích môn học
 Đầu năm điều tra mức độ hứng thú học môn Hình học lớp 7A, 7C kết quả là:
Lớp
 Sĩ số
Số HS có hứng thú
Số HS không có hứng thú
SL
%
SL
%
7A
37
15
22
7C
39
15
24
So với đầu học kỳ I số học sinh hứng thú học phân môn Hình học tăng Kết quả khảo sát học kỳ I chất lượng phân môn Hình học thật đáng phấn khởi:
TSHS
Khá giỏi
TB
Yếu kém
SL
%
SL
%
SL
%
7A
7C
 Phần III: kết luận:
Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc áp dụng các giải pháp trên vào quá trình dạy học môn Toán nói chung và môn Hình học nói riêng tôi đã rút ra một số bài học cơ bản.
Một là: Mỗi giáo viên cần phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để không ngừng trau dồi về kiến thức kỹ năng dạy học môn Hình học.
Hai là: Thường xuyên đổi mới về cách soạn, cách giảng, đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, đa dạng hoá các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập.
Ba là: Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu kém, giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng tạo niềm tin, hứng thú cho các em vào môn học.
Bốn là: Trong quá trình dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh vào việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh thảo luận. Trong mỗi tiết phải tạo ra được quan hệ giao lưu đa chiều giữa giáo viên – học sinh, giữa cá nhân, tổ chức nhóm.
Năm là: Giáo viên cần mạnh dạn đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học như các phần mềm vẽ hình, các loại máy chiếu đa năng, máy chiếu hắt, các hiệu ứng hình ảnh để tiết học thêm sinh động.
Sau nghiên cứu và triển khai vấn đề này bản thân tôi nhận thấy: Để nâng cao hứng thú cho học sinh học môn Hình học 7 thì giáo viên phải tạo hứng thú cho học sinh thông qua tìm hiểu kiến thức mới, thông qua các buổi thực hành, thông qua việc phân loại bài tập, hướng dẫn học sinh giải bài tập, qua việc vẽ hình Đồng thời phải luôn gần gũi, tìm hiểu những khó khăn, sở thích của học sinh để từ đó có những biện pháp phù hợp hơn. Bên cạnh đó cần có những thời lượng phù hợp áp dụng kiến thức hình học vào thực tiễn đời sống và để học sinh thấy được tính khoa học và giá trị thực tiễn của bộ môn.

File đính kèm:

  • docMot_so_bien_phap_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_HS_mon_hinh_hoc.doc
Sáng Kiến Liên Quan