Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh yếu kém làm tính trên số nguyên

I. PHẦN MỞ ĐẦU

I.1. Lý do chọn đề tài:

 Trong hệ thống các môn học ở bậc THCS, môn toán đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi lẽ học môn Toán giúp cho học sinh dần hình thành và phát triển được sự linh hoạt, sáng tạo và tư duy trừu tượng. Học toán giúp con người nâng cao trình độ tính toán, giúp khả năng tư duy logic, sáng tạo ngày càng nâng cao và phát triển. Khi học toán là qua hoạt động giải bài tập giúp học sinh nâng cao dần khả năng suy luận, đào sâu, tìm hiểu và trình bày các vấn đề một cách logic.

 

doc22 trang | Chia sẻ: binhthang88 | Lượt xem: 10015 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh yếu kém làm tính trên số nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 phục cho các em sự nhầm lẫn giữa dấu của phép tính cộng và dấu của phép tính nhân bằng cách đưa ra bảng tổng kết về dấu như sau:
Cách nhận biết dấu của tổng
Cách nhận biết dấu của tích
(+) + (+) (+)
(+) . (+) (+)
(-) + (-) (-)
(-) . (-) (+)
(+) + (-) hoặc (-) + (+) (-)
Khi số âm có giá trị tuyệt đối lớn hơn ( hay khi “số nợ” > “số có”).
(+) . (-) (-)
(+) + (-) hoặc (-) + (+) (+)
Khi số dương có giá trị tuyệt đối lớn hơn ( hay khi “số có” > “số nợ”).
(-) . (+) (-)
Nội dung 6: Dạy các quy tắc 
Các quy tắc này tuy rằng đơn giản nhưng để giúp học sinh vận dụng vào bài tập giáo viên cũng gặp không ít khó khăn. Vì vậy giáo viên tìm cách giới thiệu các qui tắc một cách ngắn gọn, dễ học, dễ nhớ. Chú trọng đến các bài tập luyện tập cho học sinh với mức độ yêu cầu không quá khó.
 - Qui tắc dấu ngoặc
 Giáo viên giới thiệu qui tắc dấu ngoặc tóm tắt:
 + Bỏ dấu ngoặc đằng trước có dấu “+”: Dấu các số hạng trong ngoặc không đổi.
 + Bỏ dấu ngoặc đằng trước có dấu “-”: Dấu các số hạng trong ngoặc thay đổi; “-” thành “+” và “+” thành “-”.
Các sai lầm mà các em thường mắc phải ở phần này đó là bỏ dấu ngoặc mà chỉ đổi dấu của số hạng đầu tiên trong ngoặc đó, hoặc các em không xác định được các số hạng nào thì giữ nguyên dấu của nó. Đặc biệt là khi tính tổng đại số các em lại càng rối hơn vì không biết qui về một dấu để tính toán. 
Ví dụ:
Các em có thể bỏ dấu ngoặc như sau:
12- (4 + 12 - 9) = 12 - 4 - 12 + 9 (Cũng có thể không biết dấu của số 4 là dấu gì để đổi).
b) (12 -135 + 49) - (13 + 49) = -12 +135 - 49 -13 - 49 (Không xác định được dấu của ngoặc đầu nên lúng túng khi bỏ ngoặc).
c) Tính tổng đại số 5 + (-3) - (-6) - (+7) các em làm như sau: 
5 + (-3) - (-6) - (+7) = 5 + 3 – 6 + 7, rõ ràng qui về một dấu của các em không đúng.
 	- Hướng dẫn khắc phục: Giảng chậm rãi nội dung quy tắc; làm nhiều ví dụ mẫu; trong mỗi ví dụ chỉ cho các em thấy khi đổi dấu thì phải đổi dấu từ số hạng đầu tiên đến số hạng cuối cùng của dấu ngoặc. Khi làm tính với tổng đại số giúp các em làm quen dần với việc qui về một dấu để tính toán, cách bỏ dấu ngoặc để viết dấu như sau:
- (+) = -
+ (-) = - (Chổ “” là số đề bài cho)
 -(-) = +
Một số ví dụ mẫu:
Ví dụ 1: Bỏ dấu ngoặc rồi tính:
 a) (27 - 35) – 27 = 27 – 35 – 27 = -35. 
 b) (-225) - (-17-225) = -225 + 17 + 225 = 17.
 c) –(13+9-31) + (13-31) = -13-9+31+13-31 =-9. 
Ví dụ 2: Tính tổng đại số ( Yêu cầu học sinh làm)
a) 30 + 12 + (-20) + (-12) b) (-4) + (-350) + (-6) + 350
c) (-13)+(-15) + (-8) d) 50 - (-20) + 21 - 10
e)77 - (-11) + 9 - (-22)
 - Khi tính các tổng này giáo viên phải thể hiện cho học sinh thấy được cả hai cách viết sau đây hoàn toàn giống nhau:
Cách 1: 30 +12 + (-20) + (-12) = 30 + 12 – 20 - 12
Cách 2: (Viết ngược lại): 30 + 12 – 20 – 12 = 30 + 12 + (-20) + (-12)
Tuy nhiên ta chọn cách 1 vì nhu cầu sau này các em phải học lên lớp cao hơn, về mĩ quan thì tránh được sự rườm rà, phức tạp trong khi viết, đồng thời để tính tổng: 
50 - (-20) + 21 - 10 bắt buộc em phải viết thành: 50 + 20 + 21 – 10
 hoặc 77 - (-11) + 9 - (-22) = 77 + 11 + 9 + 22.
Bài tập áp dụng:
Bài 1: Bỏ dấu ngoặc rồi tính:
a) 3 - (-2-3) b) 5 + (1-5) 
c) 11 - (15 + 11) d) (2005 - 109) - 2005
Bài 2: Tính nhanh các tổng sau: 
a) (-14) - (2-14) b) (18 + 29) + (158 – 18 + 29)
Bài 2: Tính các tổng sau:
a) (-3) + 8 - 11 b) 7 - (-9) - 3
c) -8 – 7 - 10 d) 300 - (-200) - (-120) + 18
e) – (-29) + (-19) – 40 + 12
- Quy tắc chuyển vế
 Một số sai sót của học sinh khi áp dụng qui tắc chuyển vế:
+ Không chuyển vế số hạng mà vẫn đổi dấu. Ví dụ: 5 – x = 10 
 x = 10 - 5.
+ Chuyển vế số hạng nhưng không đổi dấu. Ví dụ: x + 3 = -7
 x = -7 + 3.
+ Áp dụng qui tắc chuyển vế không đúng bài, chẳng hạn với bài toán tìm x biết:
-2.x = 6, thay vì làm phép chia để tìm x thì học sinh lại chuyển vế x = 6 + 2.
 Một số giải pháp khắc phục: 
+ Giáo viên cần khắc sâu cho học sinh đâu là vế trái, đâu là vế phải của đẳng thức nhằm giúp các em không nhầm lẫn khi áp dụng qui tắc: Vế nằm bên phải dấu “=” là “vế phải”; vế nằm bên trái dấu “=” là “vế trái”; Một số mà vượt qua bên kia dấu “=” thì phải đổi dấu.
+ Chú ý cho học sinh: Qui tắc chuyển vế thường được áp dụng vào các bài toán tìm x.
+ Với bài toán -2.x = 6 thì giải thích vì phép tính ở vế phải là “.” Nên tìm x là tìm thừa số chưa biết (lấy tích chia cho thừa số đã biết). Như vậy chỉ áp dụng qui tắc chuyển vế khi phép tính ở vế phải là phép “+” hoặc “-”, chẳng hạn:
 -2 + x = 6; x -2 = 6 hay -2 – x = 6 Áp dụng tương tự cho vế trái. 
+ Giáo viên cần trình bày một số ví dụ mẫu để các em làm theo.
Ví dụ: Tìm số nguyên x, biết:
a) x + 2 = 3 b) x – 5 = - 6 c) x - (-4) = 1 d) 7 – x = 8 - (-7)
Giải 
 a) x = 3 - 2 (Chuyển +2 sang vế phải và đổi dấu của nó thành -2)
 x = 1 (Thu gọn vế phải)
 b) x = -6 + 5 (Chuyển -5 sang vế phải và đổi dấu của nó thành +5) 
 x = -1 (Thu gọn vế phải) 
 c) x - (-4) = 1
x + 4 = -1 (Bỏ dấu ngoặc đằng trước dấu trừ) 
x = -1 - 4 (Chuyển +4 sang vế phải và đổi dấu của nó thành - 4)
x = -5 (Thu gọn vế phải) 
d) 7 – x = 8 - (-7)
 7 - x = 8 + 7( Qui dấu phép tính ở vế phải về một dấu hoặc áp dụng qui tắc dấu ngoặc) 
 7 – x = 15 (Thu gọn vế phải) 
 7 – 15 = x (Chuyển -x sang vế phải và đổi dấu của nó thành +x và cũng chuyển 15 sang vế trái và đổi dấu của nó thành -15)
 - 8 = x nên x = - 8 (Thu gon vế trái và áp dụng tính chất a = b thì b = a). 
Câu d có thể khuyến khích các em làm theo cách khác. 
Bài tập áp dung: Tìm số nguyên x, biết: 
 a) 3 + x = 7 b) x + 9 = 2 c) x – 2 = 15 
 d) x – 14 = -9 - 15 e) 2 – x = 17 - (-15)
 Nội dung 7: Phần bài tập tổng hợp 
 	Để kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh cũng như kĩ năng làm tính trên số nguyên của các em, sau khi giảng giải thật chậm rãi chi tiết các phần trên, trình bày các ví dụ mẫu với lời giải súc tích, ngắn gọn giáo viên cho các em giải một số bài tập sau:
Bài 1: Chọn câu trả lời đúng nhất:
1/ (-15) + 5 =
A. 10 B. -10 C. -20 D. 20
2/ - (-5) – 12 =
A. 17 B. 7 C. -17 D. -7
3/ 16 . (-2) = 
A. 32 B. 8 C. -8 D. -32
4/ (-3).3 = 
A. -9 B. 9 C. -27 D. 27
5/ 10 – 13 + 3=
A. 26 B. 0 C. -6 D. 6
6/ (-3 + 6) . (-4) =
A. -12 B.-36 C. 36 D. 12
7/ Cho biết - 6.x=18. Kết quả đúng khi tìm số nguyên x là:
A. -3 B. 3 C. 24 D. 12
8/ 29 - (-29)=
A. 58 B. -58 C. 0 D. Không tính được.
Bài 2: Tính các tổng sau:
a) (7 - 10) + 15 b) [(-8) + (-6)] + (-11) c) 26 - (-4) + 9 - 20
d) 72-18.(5-6) e) (-5+8).(-7) f) (-4-14):(-3)
Bài 3: Đánh dấu “x” vào ô thích hợp:
Câu
Các khẳng định
Đúng
Sai
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Tổng hai số nguyên âm là một số nguyên âm.
Tổng hai số khác dấu là một số nguyên dương.
Mọi số nguyên âm đều nhỏ hơn số nguyên dương nhỏ nhất.
Tích của hai số nguyên âm là một số nguyên âm.
Một tích có 12 thừa số nguyên âm sẽ mang dấu “-”.
Cho a,b Z, nếu a + b = 0 thì a = 0 và b = 0.
Mọi số tự nhiên đều là số nguyên dương.
Số đối của -35 là 35.
Tích của số nguyên âm với số 0 là một số nguyên âm.
Tập hợp số nguyên bao gồm số nguyên âm và số nguyên dương.
Bài 4: Tìm số nguyên x, biết:
a) x+(-3) =7 b) 2x-35 = 15 c) -3x+17 = 2 d) x-(-6) = 5 e) |x-2| = 0
f) 15.x = 75 g) 3.|x| = 18 h) 11|x| = -12
II.3. Giải pháp - biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp biện pháp 
	Trong quá trình giải toán học sinh từ khá giỏi tới học sinh yếu kém, vấn đề về số nguyên âm, nguyên dương là khó khăn, phức tạp. Tuy có hiểu bài đi chăng nữa thì các em cũng rất ngại khi gặp phải bài toán về số nguyên âm. Học sinh thường lúng túng và thường không giải được đối với những bài toán trên tập hợp số nguyên mà học sinh cho là khó. Chính vì vậy, khi kiểm tra hoặc các em làm bài kiểm tra thường bị mất điểm đối với các dạng toán này. Vì thế trong quá trình hướng dẫn giải bài tập GV cần giúp HS nắm vững và vận dụng tốt các quy tắt tính trên tập hợp số nguyên.
Trong vấn đề này, học sinh phải phân biệt được hai số nguyên cùng dấu hay trái dấu?
Tập cho học sinh cách làm thường xuyên các dạng tương tự, để cho các em thành thạo nhiều hơn, đòi hỏi giáo viên phải dành thời gian cho các em thực hành trên bảng nhiều hơn là nói các em làm vào vở (một tiết học luyện tập, phải cho 2/3 số học sinh trong lớp lên bảng làm bài). Còn việc sửa bài vào trong vở là không có gì phải bàn cãi. Thông qua đó học sinh có thể mạnh dạn hơn, không còn e dè, sợ sệt.
Cách trình bày giúp các em luôn nhớ được lí thuyết, dựa vào bài toán mà các em đã học được lý thuyết. Bài toán phải luôn thể hiện các bước rành rọt của quy tắc.
Tuy vậy, không phải chỉ một hay hai bài toán mà học sinh nắm được bài, đòi hỏi phải có sự rèn luyện thường xuyên, có sự kiểm tra chéo giữa các học sinh.
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp biện pháp
	Chuyển thể từ kiến thức phức tạp thành thực hành đơn giản, dễ hiểu. Giáo viên đưa liều lượng kiến thức vừa phải, thích hợp với năng lực và điều kiện của học sinh. 
Giáo viên luôn tạo một môi trường thân thiện giữa thầy và trò. Không quá tỏ vẻ xa cách hay quá lớn lao và cao cả đối với học sinh. Luôn cho học sinh một cảm giác gần gũi, không làm học sinh sợ hãi, dạy thật, học thật ngay từ đầu. Dạy theo điều kiện thực tế không quá áp đặt chủ quan.
Đối với tiết học lí thuyết, giáo viên đóng vai trò gợi mở, hướng dẫn, dẫn dắt học sinh tư duy để đưa đến kiến thức. Tuy có thể học sinh không lên bảng tự ghi mà giáo viên ghi lên bảng nhận xét đó, thì cũng có thể coi là hoạt động của học sinh, và công việc ghi chép lại này không thể nói: “Giáo viên làm việc quá nhiều học sinh không hoạt động gì”, vì đây là tư duy của học sinh. Giáo viên chỉ đóng vai trò dẫn dắt và hướng dẫn cách trình bày cho học sinh một cách logic hơn mà thôi.
Giáo viên
Học sinh
1. Đặt câu hỏi phù hợp.
3. Phản hồi ý kiến.
5. HS sửa bài hoàn chỉnh
2.Tư duy
4. Trình bày
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
	Trong quá trình dạy toán nói chung và phụ đạo học sinh yếu nói riêng, mỗi GV phải cố gắng không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tìm ra phương pháp giảng dạy mới nhất, hiệu quả nhất. Hướng dẫn HS phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình huống khác nhau, không dừng lại ở cái đã biết mà phải quy những cái chưa biết về cái đã biết. Giúp các em hiểu được mình, tự làm chủ kiến thức toán học.
 Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu, kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em.
Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại.
Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn...Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trước hết cần nói rõ yêu cầu sơ đẳng của việc học tập toán: 
- Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập.
- Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận.
- Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập. 
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp biện pháp:
 . Trước hết,chú trọng khắc phục các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tinh thần trách nhiệm của một người thầy trên cương vị giáo viên chủ nhiệm. 
. Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn ,ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp các em phải đi lên nương, lên rẫy để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em chúng tôi đã có ý kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được, giảm bớt gánh nặng về sự thiếu thốn vật chất cho các em. Ngoài ra tôi đã phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp bạn có thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo khoa, bút vởTạo điều kiện thuận lợi hơn cho các em đó trong học tập.
. Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần. 
Ví dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của bố mẹ...Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em , động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.
. Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học. 
Tôi trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công tác kiểm tra việc học và làm bài về nhà, trong các giờ học tôi khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn.
Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt.
Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Đây là một nỗi đau hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi, thôi thúc tôi phải làm một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém học tốt môn toán hơn qua các biện pháp như: 
 Biện pháp 1: Tổ chức dạy phụ đạo cho các em học sinh yếu khối 6 vào các buổi chiều, khi kiến thức vào giờ học chính khóa buổi sáng đã được các em tiếp thu.
 Biện pháp 2: Chọn ra các em học sinh khá trong lớp để giúp giáo viên kèm cặp, giúp đỡ cũng như kiểm tra kĩ năng làm tính của các em học sinh yếu. 
Biện pháp 3: Các dạng toán giáo viên giảng thật chậm rãi, súc tích, ngắn gọn với lời giải rõ ràng và có bài tập tương tự cho các em làm ở nhà.
 Biện pháp 4: Cho học sinh làm các bài tập kiểm tra ngắn sau mỗi tiết học, giáo viên chấm bài ngay tại lớp để kịp thời điều chỉnh các sai sót của học sinh.
 Biện pháp 5: Những giải pháp trên đây một phần dựa vào cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp giảng dạy toán ở trường THCS, nhưng phần lớn được giáo viên đúc rút từ thực tiễn giảng dạy trong các năm học vừa qua. Đặc biệt triển khai áp dụng các giải pháp nêu trên, chất lượng bài kiểm tra chương II các năm học sau tăng đáng kể.
 e. Kết quả khảo nghiệm giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
 Với ý nghỉ của mình đã giúp ích cho học sinh rất nhiều trong quá trình học tập như: 
-Nắm vững các kiến thức, tư duy, hứng thú và sáng tạo trong học tập.
	-Học sinh định hướng một cách chính xác các dạng bài toán.
	-Trình bày một cách chặt chẽ, hợp lí và logic.
	-Làm mất ít thời gian trong quá trình dạy và học.
	-Tăng khả năng tự học ở nhà cũng như khả năng học nhóm.
	-Tăng chất lượng dạy và học. 
 II.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
 Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh lớp 6 ở trường mà tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm.
 Những năm trước đây khi chưa sử dụng phương pháp mới mỗi lớp có tới 50 60% học sinh yếu, kém. Nhưng với cách làm này những năm học vừa qua chỉ còn 20 30% học sinh học yếu, không có học sinh học sinh học kém.
 Hơn thế nữa qua cách làm này, các em rất hứng thú và yêu thích môn toán hơn, tự tin hơn trong học tập.
Đề tài này tôi đã áp dụng tương đối thành công trong quá trình giảng dạy:
- Học sinh nắm vững các kiến thức và khắc sâu được kiến thức cho các em.
- Rèn luyện khả năng phân tích và tìm mối quan hệ giữa các bài toán.
- Tăng khả năng tính toán, suy luận logic, lập luận chặt chẽ.
- Định hướng được các dạng bài toán để thực hiện.
- Tăng khả năng sáng tạo và khả năng tự học của các em.
- Thấy được hiệu quả của đề tài mang lại.
*Kết quả cụ thể như sau: 
Năm học
2015-2016
2017-2018
Chưa áp dụng
Áp dụng
Chưa áp dụng
Áp dụng
Số lượng trên trung bình
8/25
20/25
16/24
/24
Tỉ lệ
32%
80%
33,33%
%
III . KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III.1 Kết luận
Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu, kém học tốt môn toán là việc làm rất khó khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương, một chút hy sinh và tinh thần trách nhiệm.
 Việc sắp xếp thời gian thích hợp ngoài giờ lên lớp để bổ trợ kiến thức bị hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai cũng làm được. Mà phải có sự tận tâm hy sinh cao cả của người thầy tất cả vì tương lai các em. Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phía lãnh đạo và các cấp ngành giáo dục. 
Mỗi người thầy có một cách làm riêng, song với cách làm nêu trên với thành công ban đầu thiết nghĩ đó là kết quả đáng phấn khởi đối với người thầy dạy toán. Việc làm này không dễ thành công trong ngày một ngày hai mà phải là sự cố gắng bền bỉ và tận tuỵ thì mới mong mang lại kết quả tốt.
 Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn, nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuyết. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý, bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của tôi ngày càng phong phú và hiệu quả hơn.
Sau khi áp dụng đề tài này vào trong giảng dạy tôi đã nhận thấy rằng hiệu quả của đề tài mang lại : Tăng khả năng phân tích, khả năng tính toán, khả năng tư duy, khả năng lập luận một cách chính xác và logic, khả năng sáng tạo, hứng thú và say mê học toán hơn.
Công việc tìm giải pháp giúp học sinh yếu giải được toán và yêu thích môn toán cần phải làm thường xuyên và làm lâu dài mới làm tăng khả năng giải toán cho các em. Qua đó cũng góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng giảng cũng như chất lương giáo dục ngày một đi lên. 
	Trên đây là một số ý nghỉ mà bản thân nghiên cứu tìm ra để quý thầy cô tham khảo. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn, để đề tài sẽ được ứng dụng có hiệu quả trong quá trình giảng dạy. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở địa phương. Chúng tôi xin chân thành cám ơn!
III.2. Kiến nghị
 Để thực hiện đề tài có hiệu quả cần:
- Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để xác định đối tượng học sinh yếu kém.
- Có kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém kịp thời.
- Nâng cao chất lượng đại trà của các khối lớp bằng các buổi học ngoài giờ chính khoá và đặc biệt tăng cường các buổi phụ đạo cho học sinh yếu kém.
 - Tăng cường phối hợp giữa gia đình với nhà trường, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp.
 - Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu lạc bộ giúp nhau học tập....
	- Tổ chuyên môn của trường có thể lấy sáng kiến kinh nghiệm để nhân rộng cho giáo viên của trường nhằm để trao đổi và học hỏi lẫn nhau.
	- Cần tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tìm kiếm học sinh năng khiếu để bồi dưỡng và phụ đạo học sinh yếu, kém.	
Người thực hiện
	 Đỗ Hồng Thơm
Tài liệu tham khảo
Phan Đức Chính - Tôn Thân, SGK Toán 6 tập 1, NXB Giáo dục
Phan Đức Chính – Tôn Thân, SGV Toán 6 tập 1, NXB Giáo dục
3. Hoàng Ngọc Diệp, Thiết kế bài giảng Toán 6 tập 1, NXBHN
 4. Nhóm tác giả: Lê Văn Hồng - Phạm Đức Quang - Nguyễn Thế Thạch - Nguyễn Duy Thuận - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III ( 2004 - 2007), NXB Giáo dục.

File đính kèm:

  • docSKKN_TOAN_1718.doc
Sáng Kiến Liên Quan