Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trẻ 3-4 tuổi hứng thú khám phá Khoa học và xã hội

Từ khi còn rất bé tôi đã rất thích bài hát “ Vì sao lại thế” với những câu hát “Xung quanh chúng ta có bao điều kì lạ, mà sao ta biết chẳng được bao nhiêu”. Thế giới xung quanh rất rộng lớn nó bao gồm tất cả sự vật hiện tượng mà con người ai ai cũng muốn tìm hiểu, muốn khám phá. Khi học nghành sư phạm và bước chân vào làm việc trong trường mầm non, hàng ngày chăm sóc dạy dỗ và trò chuyện cùng trẻ, được nghe những câu nói, những câu hỏi ngây thơ, hồn nhiên của các con như “Cô ơi cái gì đây ạ”, “cái này để làm gì”?.cho thấy các con có nhu cầu tìm hiểu và khám phá xung quanh của các con là rất lớn, nhưng các con còn quá nhỏ, chưa có vốn sống, vốn kinh nghiệm, sự trải nghiệm còn ít, chưa thể tự khám phá về thế giới xung quanh. Nên người lớn phải giúp đỡ, tổ chức, hướng dẫn trẻ khám phá khoa học và xã hội.

Tất cả những hoạt động được diễn ra trong trường mầm non, đều tạo nên cho trẻ một sự hứng thú đặc biệt, nó kích thích ở trẻ lòng say mê học hỏi, giúp trẻ phát triển khả năng nhận thức, hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc trẻ được được khám phá khoa học và xã hội là việc làm thiết thực, và phải được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm hướng tới việc mở rộng nhận thức, phát triển các quá trình tâm lý và hình thành các kỹ năng kỹ xảo cho trẻ. Trẻ được khám phá, trải nghiệm theo phương thức “Học mà chơi, chơi mà học” trong đó trẻ là chủ thể của mọi hoạt động, cô giáo chỉ là người hướng dẫn.

 

doc25 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 4099 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trẻ 3-4 tuổi hứng thú khám phá Khoa học và xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 xung quanh trẻ. Để trẻ nhận biết được các đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng của các mùa, các hiện tượng thời tiết, công việc của những người xung quanh trẻ.
Biện pháp 3: Khám phá khoa học thông qua thí nghiệm thực hành. 
Sự ham thích khám phá của trẻ là vô tận được tiếp xúc với vật thật rồi nhưng trẻ lại thích mày mò tìm hiểu và thử nghiệm, đặc biệt hứng thú làm thí nghiệm với các sự vật hiện tượng nên tôi cũng luôn chú trọng đến việc tạo điều kiện cho trẻ được trực tiếp làm các thí nghiệm. Được cùng cô hay được tự tay làm các thí nghiệm với trẻ quả là một điều thích thú. Qua các thí nghiệm trẻ được trải nghiệm, được thử sai hay đúng và cuối cùng là trẻ tự tìm đến một kết quả nào đó sẽ là một điều lý thú. Trẻ sẽ say mê khám phá với những phát hiện mới và đưa ra được hàng trăm hàng nghìn câu hỏi và giải đáp vô vàn những thắc mắc của mình. Được làm thí nghiệm là trẻ được khám phá, trải nghiệm và thử sức với những điều mới lạ, qua đó trẻ được phát triển tư duy và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề từ đó vốn hiểu biết của trẻ sẽ được nâng cao. Thông qua các thí nghiệm trẻ sẽ phá đoán và tìm ra các câu trả lời, trí tưởng tượng sẽ được phát triển, trẻ dễ dàng tiếp thu kiến thức mới và các kiến thức đó sẽ được khắc sâu hơn. 
Với biện pháp này tôi đã áp dụng rất thành công ở lớp tôi. Trẻ rất hứng thú, nhanh chóng phát hiện ra bản chất của các sự vật hiện tượng dưới đây là một số thí nghiệm:
* Ví dụ : Thí nghiệm “Chất nào tan trong nước”. 
a. Chuẩn bị 
- 3 cốc thủy tinh có dán các ký hiệu hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật.
- 3 cái thìa
- 1 bình nước đun sôi để nguội
- 1 lọ màu nước màu đỏ
- 2 viên sỏi
- 1 ít đường kính màu trắng 
b. Cách tiến hành 
- Tập trung hướng trẻ vào làm thí nghiệm
- Bước 1: Cho trẻ quan sát và gọi tên các đồ vật cần cho thí nghiệm và cho trẻ đoán xem cô sẽ làm gì với những đồ vật này. 
+ Các con nhìn xem cô có gì đây?
+ Cốc dùng để làm gì?
+ Còn đây là gì?
+ Trên các cốc có dán hình gì?
+ Cô có thể làm gì từ các đồ dùng này?
- Bước 2: Rót nước sôi để nguội vào 3 cốc thủy tinh, cho sỏi vào cốc nước có ký hiệu hình tam giác, màu nước vào cốc nước có ký hiệu hình vuông, đường vào cốc nước có ký hiệu hình chữ nhật. Sau đó dùng thìa khấy đề 3 cốc nước.
- Bước 3: Cô cho trẻ quan sát và cùng rút ra kết luận dưới sự gợi ý của cô
+ Cốc có ký hiệu hình chữ nhật: Con thấy cốc nước này như thế nào? Đường có còn không? Tại sao lại như vậy? Và cho trẻ nến thử xem nước có vị gì? Trẻ rút ra kết luận: Đường tan trong nước làm nước có vị ngọt.
+ Cốc có kí hiệu hình vuông: Con thấy cốc nước này như thế nào? Vì sao lại thế? Trẻ rút ra kết luận: Màu nước cũng tan trong nước, nên nước trong cốc chuyển sang màu đỏ.
+ Cốc nước có ký hiệu hình tam giác: Con thấy cốc nước này như thế nào? Trẻ tìm ra được nước không đổi màu, sỏi không biến mất như đường. Trẻ suy ra : Sỏi không tan trong nước.
->Tôi chốt lại kết quả thí nghiệm: Sỏi không tan trong nước, màu tan trong nước làm cốc nước chuyển từ trong suốt sang màu đỏ, đường tan trong nước làm nước có vị ngọt.
Để trẻ dễ kiểm tra, ghi nhớ khi tìm ra được điều gì tôi cho trẻ ghi luôn kết quả bằng ký hiệu mà cô và cháu đã thống nhất. Khi thực hiện thí nghiệm tôi thấy các cháu rất thích thú, chú ý quan sát tự tin đưa ra các phán đoán của mình, nhanh chóng tự tìm ra kết quả và đưa ra các kết luận chính xác.Với kinh nghiệm có được trẻ sẽ có thể thực hiện thí nghiệm này ở góc khám phá hay ở góc thiên nhiên trong các buổi hoạt động góc với các sự vật khác để tìm ra được nhiều thứ tan và không tan trong nước hơn nữa.
Hình ảnh: Làm thí nghiệm “Chất nào tan trong nước”
Các thí nghiệm không những được làm riêng lẻ, làm ở các buổi hoạt động ngoài trời mà tôi còn lồng ghép vào các tiết dạy khám phá nhằm giúp trẻ khám phá, trải nghiệm để tìm ra bản chất, cũng như những thuộc tính cơ bản của các đối tượng mà trẻ được tìm hiểu, được khám phá và tôi thấy trẻ rất hứng thú nhanh tìm ra cái mới, hiểu sâu sắc hơn về bản chất của sự vật hiện tượng, kiến thức được khắc sâu hơn.
Ví dụ 2: Thí nghiệm trong giờ dạy khám phá
Trong tiết dạy khám phá khoa học “Đôi bàn tay kỳ diệu” tôi đã cho trẻ thực hiện một chuỗi các thí nghiệm “Nóng hay lạnh” “Mềm hay rắn”, “Mịn hay thô ráp” để giúp trẻ biết được nhiệm vụ của đôi bàn tay ngoài việc cầm nắm các đồ vật còn có một nhiệm vụ rất quan trọng đó là đôi bàn tay còn là cơ quan xúc giác của cơ thể giúp con người cảm nhận được các sự vật, hiện tượng là rắn hay mềm, nóng hay lạnh, mịn hay thô ráp các thí nghiệm của tôi như sau:
a. Chuẩn bị 
- 3 túi vải màu đỏ có đựng các khối gỗ hình trụ có bề mặt nhẵn mịn.
- 3 túi vải màu xanh có đượng các miếng rửa bát bằng bọt biển.
- 3 chậu màu đựng nước ấm và 3 chậu màu xanh đựng nước có pha nước đá.
- 3 rổ đựng khăm sạch để lau tay.
b. Các tiến hành 
Cô chia trẻ làm 3 nhóm phát cho mỗi nhóm 2 túi 1 túi màu đỏ và 1 túi màu xanh cho trẻ sờ bên ngoài túi và cho trẻ nói lên cảm nhận của mình rồi cho trẻ lấy các đồ vật của từng túi sờ trực tiếp để trẻ hiểu được tác dụng của đôi bàn tay trong việc cảm nhận được đặc điểm bên ngoài của đồ vật.
- Trong túi này có gì? 
- Nó cứng hay mềm? Mịn hay thô ráp?
- Nhờ đâu mà con biết được?
-> Trẻ rút ra kết luận: Tay giúp có thể biết được đồ vật đó rắn hay mềm, nhẵn mịn hay thô ráp.
Cô hướng dẫn trẻ cách chơi với nước, sau đó phát cho mỗi nhóm 2 chậu nước 1 chậu nước đá và 1 chậu nước ấm, cho trẻ nhúng tay vào 2 chậu nước và trẻ tự nói lên cảm nhận của mình .
- Nước ở chậu màu đỏ như thế nào ?
- Nước ở chậu màu xanh như thế nào?
- Nhờ bộ phận nào mà con biết được là nước ở trong các chậu đó nóng hay lạnh?
- > Trẻ rút ra kết luận : Tay giúp cơ thể biết được đồ vật đó nóng hay lạnh.
Tôi chốt lại kết quả của thí nghiệm: Bàn tay còn là cơ quan xúc giác của cơ thể nó giúp chúng ta biết được đồ vật đó nhẵn mịn hay thô ráp, nóng hay lạnh, cứng hay mềm... 
Với tiết học này tôi thấy vui vì các cháu được thực sự chủ động khi làm thí nghiệm và phát huy được sự tự tin, tính tự lập, sự tự suy nghĩ của mình. Trẻ tự tìm ra kết quả nhanh, rất hứng thú, lĩnh hội kiến thức đầy đủ và sâu sắc. 
Tôi đã áp dụng nhiều các thí nghiệm ở các tiết học của trẻ trong những đề tài khám phá khoa học và tất cả trẻ đều say mê, hưởng ứng nhiệt tình. Từ đó tôi đã tự tin hơn khi đưa các thí nghiệm nhỏ khác vào các đề tài cho trẻ khám phá sau này như: thí nghiệm “Chiếc lưỡi thông minh” trong chủ đề khám phá “Miệng xinh”, thí nghiệm “cá bơi ở đâu” trong chủ đề “Nước”... Tôi đã đưa vào dạy và đạt kết quả cao. Có nhiều phụ huynh cũng đã trao đổi với tôi về những thay đổ tiến bộ trẻ tích cực tìm tòi khám phá ở nhà. Tôi thật sự phấn khởi với những thí nghiệm đạt hiệu quả cao và giúp trẻ say mê khám phá.
Biện pháp 4: Gây hứng thú cho trẻ trong các tiết dạy khám phá 
Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích những cái mới lạ, sinh động, việc gây hứng thú để trẻ hướng tới các đối tượng cần khám phá và tập trung khám phá là rất quan trọng. Vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú ý và tìm tòi những hình thức gây hứng thú sáng tạo nhằm mục đích lôi cuốn sự chú ý và khơi gợi sự tò mò thích khám phá ở trẻ.
Trong phần giới thiệu bài tôi luôn căn cứ vào đối tượng khám phá mà tìm tòi đưa ra cách thức gây hứng thú riêng nhằm thu hút trẻ. Các hình thức được thay đổi linh hoạt để phù hợp với từng đối tượng như: chơi trò chơi, hát, múa, đọc thơ, giải câu đố, tạo tình huống bất ngờ, tình huống có vấn đề, đôi khi là những màn ảo thuật nhỏ.
Ví dụ 1: Trong tiết khám phá “Hoa hồng” tôi đã sử dụng một màn ảo thuật “biến đồng xu thành hoa hồng”. Màn ảo thuật đã rất thành công trong việc kích thích hứng thú của trẻ khi khám phá hoa hồng.
Để trẻ có hứng thú khám phá, tích cực quan sát và trả lời các câu hỏi của cô trong suốt buổi học tôi luôn thay đổi hình thức như: cho trẻ chơi trò chơi, hát những bài hát, nghe những câu chuyện, xem những đoạn clip hay làm những thí nghiệm nhỏ có liên quan đến đối tượng đó.
 Ví dụ 2: Trong tiết khám phá “Con mèo” tôi đã lồng ghép một đoạn clip về cách thức săn mồi của mèo cho trẻ xem. Trẻ rất thích thú và trả lời rất tốt các câu hỏi của cô đặt ra về các thức vận động của mèo. Việc được tham gia trải nghiệm tạo cho trẻ sự thoải mái từ đó trẻ sẽ tập trung quan sát đối tượng và tư duy tìm ra cái mới để trả lời tốt các câu hỏi của cô. Những kiến thức trẻ tự tìm ra trẻ sẽ ghi nhớ lâu hơn và hiểu sâu sắc hơn.
Biện pháp 5: Lồng ghép tích hợp khám phá trong mọi hoạt động
Để trẻ có nhiều thời gian và nhiều cơ hội khám phá, tôi luôn chú trọng lồng ghép các hoạt động cho trẻ khám phá ở mọi lúc mọi nơi vào tất cả các hoạt động trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở trường: Giờ đón trẻ, giờ trả trẻ, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều, hoạt động lao động, giờ ăn và trong các môn học khác. Trong các hoạt động đó trẻ khám phá qua môn học khác, các trò chơi, bài hát, bài thơ, các bài đồng giao, được làm các bài tập được xem các clip và được hưỡng dẫn thực hiện các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống. Được tham gia khám phá, trải nghiệm ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động trẻ rất thích thú và có thêm kiến thức về các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ.
Ví dụ 1: Trong giờ đón trả trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về bản thân trẻ, gia đình trẻ, công việc hàng ngày của trẻ, của mọi người xung quanh, các phương tiện bố mẹ sử dụng hàng ngày, một số nghề phổ biến ở địa phương, các lễ hội và xem tranh ảnh về các danh lam thắng cảnh. Qua đó trẻ có thêm nhiều kiến thức về xã hội.
Ví dụ 2: Trong tiết tạo hình “Vẽ con gà” tôi cho trẻ quan sát bức tranh con gà rồi đàm thoại để trẻ nêu lên được những đặc điểm nổi bật của con gà như: các bộ phận, màu lông... Từ đó trẻ sẽ được củng cố kiến thức về con gà, trẻ sẽ vẽ con gà có đầy đủ các bộ phận và tô màu con gà thật đẹp.
Ví dụ 3: Trò chơi “Gieo hạt” trẻ biết được quá trình nảy mầm của hạt như thế nào.
Ví dụ 4: Trong chủ đề khám phá “Bánh trôi” trẻ được các cô cho thực hiện làm bánh trôi vào giờ hoạt động chiều sau đó các cô mang xuống bếp luộc bánh và cho trẻ ăn chính sản phẩm mà mình làm ra. Hay ở hoạt động lao động của chủ đề tết và mùa xuân, tết trung thu trẻ được cùng cô dọn dẹp và trang trí lớp để đón tết.
Hình ảnh: Trẻ khám phá khoa học qua hoạt động làm bánh
Biện pháp 6: Công tác tuyên truyền với cha mẹ học sinh.
Đây cũng là một trong những biện pháp mang lại hiệu quả cao trong hoạt động giáo dục. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào các giờ đón trẻ, trả trẻ giúp tôi dễ dàng nắm bắt được tình hình của trẻ, hiểu được tính cách và hoàn cảnh sống của từng trẻ từ đó tôi đưa ra các biệp pháp giáo dục phù hợp. 
Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi cũng thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe và học tập của trẻ ở trên lớp. Hàng ngày tôi cũng trao đổi với phụ huynh về các bài học trẻ đang học và nhiệm vụ cô giao về cho trẻ để phụ huynh tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm ở nhà nhằm củng cố thêm kiến thức cho trẻ. Bên cạnh đó tôi cũng trú trọng đến việc xây dựng góc tuyên truyền ở ngay cửa lớp với các nội dung: Kế hoạch giáo dục, các bài thơ bài hát, các kỹ năng bé cần và cách thực hiện các kỹ năng đó, thông tin sức khỏe và đặc biệt là chủ đề sự kiện khám phá trong tuần. Phụ huynh biết được các con được học gì hàng ngày để quan tâm, giúp đỡ con và tạo điều kiện cho con khám phá ở nhà, gần gũi trò chuyện và giúp trẻ giải đáp các thắc mắc về các sự vật hiện tượng quanh trẻ. Nhờ sự kết nối bền chặt giữa gia đình với nhà trường, giữa cô giáo và phụ huynh đã tạo cho trẻ những cơ hội học tập và môi trường khám phá thuận lợi trẻ sẽ tích cực hơn trong mọi hoạt động nhất là trong hoạt động khám phá.
Tôi cũng thường xuyên trao đổi và vận động phụ huynh ủng hộ cây xanh, cây ăn quả để trồng trong vườn trường và ở góc thiên nhiên. Và căn cứ vào nghề nghiệp của từng phụ huynh để nhờ phụ huynh thu gom lại các vật liệu hỏng như lốp ô tô để làm các bồn cây, bàn ghế, các bài tập vận động góp phần tạo môi trường ngoài lớp học phong phú hơn. 
Ngoài ra tôi còn trao đổi với phụ huynh có thể mua cho các con các quyển truyện, tranh ảnh về các con vật, cây cỏ hoa lá, các loại phương tiện giao thông...vv phù hợp với lứa tuổi để trẻ mở rộng vốn kiến.
4. Kết quả thực hiện
Sau một năm thực hiện đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi hứng thú khám phá khoa học và xã hội” tôi đã thu được một số kết quả như sau:
a. Đối với bản thân:
Tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi kiến thức và hiểu biết của bản thân. Xây dựng những tiết học, những hoạt động với nhiều hình thức và nội dung mới nhằm thu hút và cung cấp kiến thức, kỹ năng cho trẻ khám phá khoa học và xã hội đạt kết quả cao không gây sự nhàm chán cho trẻ.
Xây dựng được môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học đẹp, khoa học, xanh, sạch thoáng mát thu hút trẻ và phát huy được sự tích cực của trẻ. 
Được các bậc phụ huynh tin tưởng, ủng hộ và cùng phối hợp để công tác chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả cao.
 	b. Đối với trẻ:
Trẻ lớp tôi đã tiến bộ nhanh về mọi mặt, thông qua các biện pháp mới mà các cháu đã hăng say vào khám phá khoa học vì thế các kỹ năng phát triển các cháu có sáng tạo hơn trong các giai đoạn. Vốn kiến thức đã được mở rộng và khác sâu hơn, tư duy, ngôn ngữ cũng phát triển một cách rõ rệt. Khả năng phát hiện cái mới dưới sự gợi ý của cô được nâng cao.
Các kỹ năng nhận thức của trẻ như phân tích, khả năng quan sát, so sánh, nhận biết các đặc điểm, nắm bắt tổng hợp, trả lời câu hỏi tiến bộ rất nhanh. Đa số trẻ đã biết bảo vệ, gìn giữ môi trường trong và ngoài lớp.
Trong các giờ chơi, giờ học đã hình thành xúc cảm, tình cảm rất tích cực và kinh nghiệm cũng như kỹ năng sống của trẻ từ đó cũng tốt hơn, trẻ đã mạnh dạn tự tin và có nề nếp hơn. Trẻ có trách nhiệm trong công việc và biết yêu thương giúp đỡ mọi người cũng như biết yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. 
c. Kết quả có so sánh đối chứng trước khi thực hiện và sau khi thực hiện 
Tiêu chí
Trước khi thực hiện đề tài
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng trẻ
Tỉ lệ %
Số lượng trẻ
Tỉ lệ
%
Số lượng trẻ
Tỷ lệ %
Số lượng trẻ
Tỷ lệ %
Trẻ hứng thú tham gia hoạt động tìm tòi khám phá
3/30
10
6/30
20
10/30
33,3
11/30
36,7
Khả năng nhận thức 
4/30
13,3
8/30
26,6
11/30
36,7
8/30
23,4
Kỹ năng hoạt động, quan sát, tìm ra đặc điểm và trả lời các câu hỏi 
3/30
10
5/30
16,7
12/30
40
10/30
33,3
Khả năng phát hiện cái mới và có thái độ phù hợp với hành động 
2/30
6,7
4/30
13,3
8/30
26,6
16/30
53,4
Tiêu chí
Sau khi thực hiện đề tài
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng trẻ
Tỉ lệ %
Số lượng trẻ
Tỉ lệ
%
Số lượng trẻ
Tỷ lệ %
Số lượng trẻ
Tỷ lệ %
Trẻ hứng thú tham gia hoạt động tìm tòi khám phá
12/30
40
12/30
40
6/30
20
0/30
0
Khả năng nhận thức 
8/30
26,7
13/30
43,3
9/30
30
0/30
0
Kỹ năng hoạt động, quan sát, tìm ra đặc điểm và trả lời các câu hỏi 
7/30
23,4
9/30
30
13/30
43,3
1/30
3,3
Khả năng phát hiện cái mới và có thái độ phù hợp với hành động 
5/30
16,7
10/30
33,3
13/30
43,3
2/30
6,7
III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận: 
Khám phá khoa học và xã hội là một hoạt động thường xuyên, quen thuộc ở bậc học mầm non. Việc cho trẻ tiếp xúc làm quen với các sự vật hiện tượng trong môi trường giáo dục tốt, khoa học và phù hợp với lứa tuổi là rất quan trọng. Mọi hoạt động hướng tới từng trẻ cũng như từng nhóm trẻ sẽ giúp trẻ phát triển ở tất cả các lĩnh vực. Về cơ bản trẻ được tự khám phá, thực hành và trải nghiệm thông qua học và chơi để nhận thức, có kiến thức, kỹ năng tư duy của trẻ sẽ được nâng cao. Thông qua khám phá khoa học và xã hội trẻ còn được rèn luyện các kỹ năng cần thiết để tự phục vụ bản thân như kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, trẻ biết yêu thiên nhiên, yêu lao động và biết yêu thương giúp đỡ mọi người, ngoan ngoãn hơn, hồn nhiên, trong sáng, tự tin và thân thiện hơn.
* Bài học kinh nghiệm: Qua một thời gian dài nghiên cứu tài liệu, tìm tòi, học hỏi và qua việc thực hiện các phương pháp nói trên tôi tự rút ra bài học sáng kiến kinh nghiệm cho mình như sau:
Giáo viên phải nhiệt tình chịu khó tìm tòi, tham khảo tài liệu và nắm chắc phương pháp giảng dạy và có kiến thức đầy đủ về các sự vật hiện tượng nhưng phải biết tích hợp linh hoạt các bộ môn, các hoạt động khác vào tiết học.
Tích cực học hỏi bạn bè đồng nghiệp, sách báo truyền hình từ đó biết tạo ra môi trường trong và ngoài lớp phong phú phù hợp với trẻ để trẻ tích cực hoạt động và cung cấp cho trẻ những kiến thức đúng, chuẩn mực.
Cô giáo phải luôn sáng tạo trong việc tạo ra đồ dùng trực quan phục vụ cho trẻ học, trẻ chơi phong phú hấp dẫn. Vận dụng linh họat trò chơi, lồng ghép tích hợp các bộ môn, các hoạt động học khác vào việc dạy trẻ khám phá khoa học và xã hội. Mục đích kích thích trẻ hoạt động một cách tích cực thoải mái và đạt hiệu quả cao. Tạo điều kiện cho trẻ được tìm tòi khám phá ở mọi lúc, mọi nơi cô tận dụng mọi tình huống, mọi cơ hội để trẻ được tiếp xúc với các sự vật hiện tượng. Sưu tầm các băng đĩa có hình ảnh, các clip về môi trường, vạn vật xung quanh như: Phương tiện giao thông, con vật, cỏ cây hoa lá, một số thí nghiệm đơn giảnđể trẻ được quan sát. Đặc biệt cô phải luôn gần gũi, trò chuyện với trẻ để xách định khả năng, sở thích, kinh nghiệm và nhu cầu của trẻ để xác định mục tiêu phù hợp và hỗ trợ phù hợp cho từng trẻ. Làm tốt công tác phối hợp với gia đình, với cộng đồng để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc học tập của trẻ.
2. Những kiến nghị sau khi thực hiện đề tài:
a. Đối với nhà trường
Để thực hiện tốt đề tài này, là người làm công tác giáo dục trực tiếp giảng dạy ở trên lớp ,tôi mong ban giám hiệu nhà trường bổ sung thêm thiết bị, đồ dùng cho hoạt động khám phá khoa học và xã hội nói riêng và các hoạt động khác để có thêm nhiều đồ dùng, đồ chơi phong phú phục vụ tốt các hoạt động.
b. Đối với giáo viên
Trên thực tế, phương pháp và hình thức của mỗi giáo viên có những ưu khuyết điểm riêng. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc phát triển nhận thức cho trẻ trước hết người giáo viên cần phải lựa chọn và thiết kế các hoạt động dựa trên khả năng của trẻ ở lớp mình. Đặc biệt để đạt được hiệu quả cao hơn trong mỗi giờ hoạt động giáo viên cần biết áp dụng linh hoạt các hình thức, sử dụng nhiều phương pháp kích thích tính tự giác và ham học hỏi của trẻ để trẻ cảm thấy mỗi giờ hoạt động là một điều mới lạ, hấp dẫn.
Bên cạnh dó, giáo viên cần trao đổi, học hỏi thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp lắng nghe ý kiến đóng góp xây dựng, biết sửa chữa khuyết điểm và phát huy ưu điểm và khả năng sáng tạo của bản thân. Nâng cao khả năng sử dụng máy vi tính làm các bài giảng điện tử phục vụ các tiết dạy.
Thực hiện công tác tuyên truyền với phụ huynh, tham mưu với ban giám hiệu trang bị thêm đồ dùng, đồ chơi. Bản thân tôi ngày ở lớp tối về nhà luôn tự tạo các đồ dùng, đồ chơi, các bài tập phục vụ cho các hoạt động vui chơi của trẻ.
Tự học hỏi, tìm tòi để nắm vững kiến thức về các sự vật hiện tượng để mọi kiến thức đến với trẻ luôn đúng và hữu ích nhất. 
Tóm lại, tôi luôn tâm niệm: “ Là giáo viên mầm non trước hết phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với nghề, yêu thương trẻ thơ, không ngừng sưu tầm, học hỏi với suy nghĩ đưa ra các phương pháp, hình thức hay hơn nữa trong các hoạt động, giúp trẻ không những ngoan, khỏe mà còn phát triển toàn diện về mọi mặt.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 
1. Giáo trình : Lý luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh của tiễn sỹ Hoàng Thị Phượng –Nxb ĐHSP- 2008
2. Giáo trình: Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm Non – Nguyễn Ánh Tuyết –Nxb ĐHSP- 2008
3. Giáo trình: Giáo dục học mầm non – Đào Thanh Âm – Nxb ĐHSP- 2007.
4. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non 3 - 4 tuổi NXB giáo dục Việt Nam 
Trên đây là “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi hứng thú khám phá khoa học và xã hội” của tôi được đúc rút từ quá trình thực hành, trải nghiệm trong năm học 2016 - 2017 ở lớp C2. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn. 
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Đông, ngày 02 tháng 04 năm 2017

File đính kèm:

  • docgdmg_nguyen-thuy_mn-phu-luong.doc
Sáng Kiến Liên Quan