Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Thực trạng dạy học văn miêu tả lớp 4.

1.1. Thuận lợi

- Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn có hiệu quả, góp phần nâng cao tay nghề cho GV.

- Giáo viên đều được trang bị đầy đủ SGK, sách giáo viên, sách tham khảo, các phương tiện dạy học như máy chiếu để dạy giáo án điện tử.

- Đội ngũ giáo viên có năng lực, yêu nghề đã áp dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh một cách linh hoạt và hiệu quả.

- Từ lớp 2, 3 học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.

- Đối tượng miêu tả khá gần gũi với đời sống hằng ngày của học sinh như: đồ dùng học tập, cây bàng, con gà, .

- Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc và sức sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật, con vật, cây cối là những người bạn thân thiết, gần gũi, các em có thể tâm sự, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lí này rất thuận lợi cho việc khơi gợi ở các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú vị,.

1.2. Khó khăn

- Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây cối,. xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.

- Học sinh chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.

- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.

- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích lũy các từ ngữ gợi tả.

- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,. còn hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng, chưa khoa học.

- Chưa có thói quen sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi làm văn.

- Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm không tự nhiên, có sự gượng ép.

- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ; các em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.

- Các em chưa thực sự cảm thấy yêu thích môn học.

Như chúng ta đã biết, sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các văn bản ở dạng nói, dạng viết theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của việc học văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hóa, văn minh của một người. Đối với học sinh năng lực viết chứng tỏ tư duy logic, tư duy hình tượng đã phát triển ở một mức độ nhất định.

Lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành đoạn văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Mỗi bài văn miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép các bài văn mẫu. Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó cũng là điều trăn trở của tôi cũng như của các giáo viên trong khối.

Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm tòi, tham khảo tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm để nắm bắt những phương pháp tối ưu nhất phục vụ quá trình giảng dạy.

Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học sinh, ta có thể thấy ngay được kết quả của việc dạy và học.

Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh của lớp 4B cuối học kì I năm học này có số liệu cụ thể như sau:

Lớp Số lượng HS HTT HT CHT

4B 14 2 (14,2%) 9 (63,9 %) 3 (21,3%)

 Thông qua số liệu này ta có thể nhận thấy tỉ lệ học sinh Chưa hoàn thành kỹ năng Tập làm văn còn rất cao (21,3%). Bên cạnh đó, tỉ lệ học sinh Hoàn thành tốt lại chiếm tỉ lện rất thấp (14,2%).

2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4

2. 1. Giải pháp 1: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh

Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo được động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết)

Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các kiểu bài do chương trình quy định. Để sản sinh các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều kĩ năng khác ngoài các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, kĩ năng dùng từ đặt câu. Đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn.

Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc tiểu học là mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong đó học văn miêu tả sẽ góp phần phát triển tư duy hình tượng cho các em nhờ các biện pháp so sánh, nhân hóa ,. khi miêu tả. Nhưng làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ trên mà không biến các em thành những “ thợ ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn.

 Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối tượng miêu tả.

 Ví dụ: Giáo viên cho các em quan sát bức tranh cây hoa phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà văn Xuân Diệu đã ví “ như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.”?

Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của cây hoa với muôn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.

Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng sống khác. Như dạy các em giữ gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh trồng, chăm sóc và bảo vệ cây. Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có những cảm xúc, tình cảm. Từ đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm bằng ngôn ngữ nói, viết.

 Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề bài cần yêu cầu viết về những gì gần gũi, thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Trong tiết Kiểm tra viết (sách Tiếng Việt 4 tập 2 – trang 92) có 4 đề bài gợi ý, giáo viên cần dựa vào đó ra đề nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi viết bài.

Ví dụ: + Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm cuả em.

 + Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.

 + Đề 3: Em thích loài hoa nào nhất? Hãy tả loại hoa đó.

2. 2. Giải pháp 2: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm của văn miêu tả.

 Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung dược cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.

Nhà văn Phạm Hổ viết: “ Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, một dòng sông, . người đọc còn có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí còn có thể ngửi thấy mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc, .nhưng đó mới chỉ là miêu tả bên ngoài, còn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cả cây cỏ”

(Viết văn miêu tả và văn kể chuyện)

 Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà học sinh yêu mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả.

Đối tượng của văn miêu tả trong chương trình lớp 4 gồm có: Miêu tả đồ vật, cây cối, con vật.

- Tả đồ vật:

 Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy trong đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi với các em. Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo thức, Chúng là những đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học sinh.

Mỗi đồ vật đều có hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học sinh miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có nhiều bộ phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính là những nét tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.

 

doc20 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. 
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách như sau:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
- Nhân hoá hay tự nhiên hoá một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
- Dự đoán trựớc khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới.
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay.
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình.
2. 5. Giải pháp 5: Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn.
Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.
Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,...). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”.
Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định yêu cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,...) Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau:
* Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết (miêu tả). Việc phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả.
* Nhóm bài tập sản sinh ngôn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài văn:
+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), đoạn kết bài (mở rộng, không mở rộng). Các đoạn phải có sự liền mạch về ý (không rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính (có mở đầu, triển khai và kết thúc).
*Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho là hợp lí nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng một sự kiện, hoàn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng những câu thơ, ca dao.. . có liên quan đến yêu cầu của đề bài.
- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả.
 - Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết bài khô cứng, gò bó, thiếu chân thực. Các em thường làm kết bài không mở rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết cách và viết được phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên. Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở để khơi gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ, hiện tại, tương laị; hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đối tượng được tả. 
VD: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường, em có cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em càng thấy như thế nào?...
Hoặc Tả cây ăn quả: Hình ảnh cây sai trĩu quả gợi cho em cảm nghĩ gì? Mỗi khi ăn quả em nhớ đến điều gì? 
+ Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng luyện cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn văn trong bài phải liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người miêu tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để lột tả hình ảnh một cách sinh động.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, đòi hỏi sự sáng tạo nhất, yêu cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc sống, về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngôn ngữ đã được hình thành trước đó để tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên phải luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả thành những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả nhất.
Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này trong suốt bài viết để bài văn không lan man.
Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay không, có đặc sắc không? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên của các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài.
2. 6. Giải pháp 6: Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn.
Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện viết như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng từ; từ ý đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo yêu cầu, làm các bài tập mở rộng thành phần câu... để cách diễn đạt được sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
VD: Một học sinh tả chiếc bàn học:
Mỗi lúc học bài mệt em thường áp mặt lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài toán khó.
Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như vậy. Học sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng khi viết văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em? Tôi đã giúp các em bằng cách như sau:
VD: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thẳm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm 
( mà không phải một con).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm nhận của các em, hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó. Chú ý giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh không có giá trị.
- Yêu cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả biện pháp nghệ thuật đó.
2. 7. Giải pháp 7: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.
Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở lớp đầu cấp, khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát triển. TLV có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu được học diễn đạt lưu loát, giàu hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý.
Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được như vậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào?
* Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu biểu cần khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu, lỗi diễn đạt,..Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Thống kê và phân loại bài theo mức độ: tốt, khá, trung bình, chưa đạt yêu cầu. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh.
* Trong giờ trả bài:
Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra lúc đầu để tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xem xét cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh luyện viết lại đoạn, bài.
- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực hiện các bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của học sinh).
- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa được lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàu hình ảnh và sức gợi tả. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên (thành tiếng và đọc thầm) một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận được sự thú vị của cái hay đó.
Tuy nhiên, ta cũng không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng học sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo viên cần kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất.
Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết được hay là khi các em đã bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết cách quan sát đối tượng, tích luỹ được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn; biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ đó, các em viết bài dễ dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết được nâng cao.
2.8. Giải pháp 8: Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo vệ môi trường.
Dạy văn miêu tả đòi hỏi sự nhiệt huyết của giáo viên rất cao thì mới thấy được sự tiến bộ của học sinh, mới khơi gợi được ở các em niềm say mê, thích thú. Các em không chỉ viết tốt bài theo đề giáo viên yêu cầu mà còn có nhu cầu miêu tả những đối tượng yêu thích khác. Không chỉ trong tiết TLV mới dạy học sinh học viết văn, ta còn hướng dẫn các em trong các tiết học khác của môn Tiếng Việt như dạy các em cảm thụ trong giờ Tập đọc, dạy dùng từ, đặt câu trong tiết LTVC, kích thích nhu cầu miêu tả một đồ vật nào đó trong khi tiếp xúc trò chuyện, hay các giờ ngoại khoá. Trong một lần hướng dẫn các em xếp hàng vào lớp, bất chợt tôi nhìn thấy cây bằng lăng giữa sân trường ở bông hoa đầu tiên. Tôi hỏi các em:
- Sân trường hôm nay có điều gì vừa mới, vừa lạ và rất đẹp? Các em quan sát nhanh và đều nhận thấy điều tôi muốn hỏi.
- Bông hoa ấy đẹp như thế nào và cho em cảm xúc gì? Các em rất hào hứng nói lên suy nghĩ của mình.
Tôi giáo dục ý thức bảo vệ cây xanh bằng cách hỏi các em như sau:
- Bông hoa đẹp thế kia, em có nên ngắt để tặng một người em yêu quý không? Vì sao?
Như vậy, trong một thời điểm ngắn, tôi đã đạt được nhiều mục đích: Các em xếp hàng nhanh mà không căng thẳng; kích thích các em phát triển khả năng quan sát, nhận xét tinh tế, khả năng dùng ngôn ngữ để diễn đạt.. .Trong khoảng thời gian sau đó, tôi tin rằng nhiều em còn suy nghĩ và vận dụng vốn từ của mình để tả về bông hoa đó theo cảm nhận riêng.
Bên cạnh đó, cần dạy học tích hợp với các môn học khác làm giàu vốn sống, vốn hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “ Thực vật và động vật” của môn Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số loài thực vật, động vật, hiểu được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy, khi làm bài văn miêu tả( cây cối, con vật), các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể hiện tình cảm của mình một cách chân thật hơn.
2.9. Giải pháp 9: Khen ngợi, động viên học sinh kịp thời.
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả giáo viên hãy dành cho các em những lời khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti cố hữu.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng tương đối thành công khi dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4B do tôi chủ nhiệm.
Kết quả đạt được:
Qua một quá trình lao động, tìm tòi sáng tạo để thực hiện từng giờ môn Tập làm văn môt cách bài bản, có kế hoạch. Tôi nhận được một số kết quả như sau.
a. Mặt mạnh: 
Tôi nhận thấy ngoài nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi” của mình một cách rõ ràng bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. Dạy Tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình qua từng bài học cụ thể.
Qua đánh giá tôi thấy tất cả các em làm bài đạt yêu cầu, số lượng học sinh làm tốt bài văn miêu tả tăng đáng kể .
b. Mặt hạn chế:
Thời gian làm bài không dài( khoảng 30- 25 phút), nên các em khi viết bài luôn mang tâm trạng vội vàng, sợ hết giờ. Vì vậy, các em chưa có sự chọn lựa, trau chuốt từ ngữ, câu văn,... nên phần nào hạn chế hiệu quả của bài viết.
Kết quả kiểm tả chất lượng viết văn miêu tả của học sinh của lớp 4B cuối năm học này có số liệu cụ thể như sau:
Lớp
Số lượng HS
HTT
HT
CHT
4B
14
6 (42,6%)
8 (57,4 %)
0 (0%)
 Căn cứ vào kết quả trên, so với điểm cuối học kì 1 đến cuối học kì 2 thì kĩ năng Tập làm văn của học sinh đã tiến bộ hẳn. Số lượng học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt khá cao, không còn học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ năng môn học.
 Kết quả trên cho thấy “Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lơp 4” mà tôi đã triển khai đã đạt được hiệu quả tốt và mang tính khả thi cao.
	Thông qua dạy học, tôi nhận ra rằng dạy - học Tập làm văn cần nắm vững những cơ sở lí luận và phương pháp luận của nó khi đó giáo viên mới hiểu được ý đồ lựa chọn nội dung cụ thể ở các bài, của tác giả Sách giáo khoa cũng như quy trình và phương pháp học từng bài trong Sách giáo khoa, Chuẩn kiến thức kĩ năng ,.....Từ đó tổ chức, hướng dẫn và điều khiển tốt mọi hoạt động của mình, của học sinh, tạo ra chất lượng và hiệu quả giáo dục cao.
 Muốn làm được như vậy giáo viên phải được trang bị những tri thức về phương pháp dạy học tích cực và tạo được điều kiện để các em hoàn thành những kĩ năng cần thiết của phương pháp dạy học này. Tuỳ từng bài mà giáo viên lựa chọn áp dụng những biện pháp phù hợp để làm thế nào cho giờ học Tập làm văn có hứng thú và đạt kết quả cao nhất.
III. PHẦN KẾT LUẬN
Ý nghĩa của đề tài
	Dạy học sinh viết văn miêu tả có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Phân môn Tập làm văn là một phân môn thực hành và giàu sức sáng tạo cá nhân. Có nhiều cách viết bài văn miêu tả và cũng có nhiều biện pháp để dạy văn miêu tả. Trên cơ sở kinh nghiệm giảng dạy, mỗi giáo viên đều có những cách thức dạy học riêng nhằm thực hiện tốt nội dung chương trình đã quy định.
Tuy nhiên, để thành công khi dạy văn miêu tả, mỗi giáo viên đều phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Nắm chắc mục tiêu môn học, bài học.
- Luôn tìm tòi, trau dồi kiến thức và trình độ hiểu biết của bản thân.
- Linh hoạt trong phương pháp giảng dạy.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
- Luôn thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học.
- Phối hợp với các hoạt động ngoài giờ để tích lũy vốn hiểu biết và bồi dưỡng tâm hồn giàu cảm xúc cho các em.
- Luôn kiểm tra, đánh giá mức độ và kịp thời ghi nhận sự tiến bộ của học sinh.
- Chuyển sự đánh giá kết quả học tập của giáo viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh.
2. Kiến nghị - Đề xuất.
Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của học sinh. Như vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai qua đó học sinh phát hiện, khám phá đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt.
- Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm nhận tính chất muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn, cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung).
Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh. ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn.
- Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn.
Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người nghe.
Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ dựa vào sách giáo khoa mà còn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng hiểu biết về nội dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh để cung cấp gợi ý cho học sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng lên.
 Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà tôi rút ra trong quá trình Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi mong đươc sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của cấp trên và các bạn đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện và đạt kết quả tốt hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_lam_van_m.doc
Sáng Kiến Liên Quan