Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Lớp 2

Nguyên nhân mắc lỗi

2.1.2.1. Về dấu thanh

Học sinh chưa phân biệt được thanh hỏi và thanh ngã do vốn từ còn hạn chế; chưa nắm chắc một số quy tắc viết chính tả. Mà số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu thanh này rất phổ biến. Lỗi này còn do nhiều nguyên nhân như: phát âm sai; thời gian thực hành luyện viết chính tả cho các em còn hạn chế; giáo viên chưa phân tích và sửa chữa lỗi sai chính tả cho những học sinh viết sai; một số sách, tài liệu học tập còn in sai lỗi chính tả ở một số văn bản; và một nguyên nhân lớn hơn là một số giáo viên chưa nắm vững các quy tắc, cơ sở khoa học để hướng dẫn cho học sinh.

2.1.2.2. Về âm đầu

HS có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu c/k, ng/ngh. d/gi do các em chưa nắm chắc nghĩa của từ ; chưa ghi nhớ được các mẹo luật chính tả và thực hành – luyện tập còn ít. Ngoài ra, có một số âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: /k/ ghi bằng c, k, qu ) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh lớp 2 thì rất dễ lẫn lộn.

2.1.2.3. Về vần

HS có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi vần là do các em chưa nắm chắc nghĩa của từ cũng như các quy tắc viết chính tả và mẹo luật chính tả. Ngoài ra, có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:

- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi ie, ươ, uô lại được ghi bằng các dạng iê, yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia - khuya, biên - tuyến, lửa - lương, mua - muôn); âm đệm /w/ lại được ghi bằng 2 con chữ u và o :

- Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ.

 

doc17 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đỡ tốn công hơn. Cần nên vận dụng tất cả các cơ quan: tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Cho học sinh đọc kỹ những văn bản viết dấu đúng chính tả, và nhất là tập viết đúng cho quen mắt, quen tay. Càng được thực hành nhiều, học sinh sẽ có kỹ năng viết đúng hỏi/ngã. Song, việc rèn cho học sinh học tập như vậy trước hết giáo viên phải giúp học sinh nắm được quy luật, cơ sở khoa học của cách viết đúng dấu hỏi/ngã. Phương pháp này đòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, áp dụng những quy luật biến dị của âm thanh và về từ nguyên học để tìm tòi gốc rễ của mỗi tiếng.
* Giáo viên hướng dẫn học sinh cách viết hỏi/ngã trong từ Từ Hán - Việt 
Dù muốn hay không, trải qua hơn nghìn năm đô hộ của Trung Quốc, Việt Nam chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa Trung Hoa. Mặc dù đã cải biến và chữ viết được thay thế bằng chữ Quốc ngữ, nhưng còn nhiều từ chúng ta dùng thường ngày là từ Hán - Việt, chiếm tỷ lệ đến 70% tổng số từ trong tiếng Việt. Viết hỏi/ngã trong từ Hán - Việt không theo một quy tắc, quy luật nào cả, chỉ có mẹo giúp chúng ta viết đúng hỏi/ngã. Đó là, viết dấu ngã tất cả những tiếng bắt đầu bằng D, L, V, M, N, Nh, Ng và Ngh; hay nhớ câu: "Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã". 
Ví dụ: dĩ vãng, dã man, lãng du, lãnh đạm, viễn xứ, vĩ nhân, mỹ miều, cần mẫn, nỗ lực, não nề, hàng ngũ, ngôn ngữ, nghiễm nhiên,  
Ngoài các tiếng bắt đầu bằng những phụ âm đã nêu trên, từ Hán - Việt được viết bằng phụ âm khác hoặc không có phụ âm được viết bằng dấu hỏi, ví dụ như: đảo điên, tưởng tượng, kiểu cách, ... Nhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ vẫn viết bằng dấu ngã: kĩ (kĩ thuật, kĩ xảo), bãi (bãi bỏ, bãi khóa), hữu (bằng hữu, hữu nghị), phẫu (phẫu thuật, giải phẫu), tiễn (tiễn đưa, tiễn biệt, tống tiễn), 
Ví dụ: Giáo viên giúp học sinh viết đúng hỏi/ngã trong từ Hán - Việt thông qua bài tập sau
Các từ Hán - Việt sau đây theo đúng quy luật hỏi ngã. Hãy sửa lại lỗi chính tả (nếu có) : diễn biến, biễu diển, hướng dẩn, hùng dũng, vủ khúc, ô nhiểm, lảng phí, kiều diễm, khã năng, thủy triều, thế kĩ, 
- GV hướng dẫn học sinh vận dụng cách viết các tiếng có dấu ngã để làm bài tập này. Các tiếng còn lại sẽ là dấu hỏi
- Học sinh thảo luận theo cặp hoặc làm bài cá nhân để hoàn thành bài tập. Kết quả cần đạt là: diễn biến, biểu diễn, hướng dẫn, hùng dũng, vũ khúc, ô nhiễm, lãng phí, kiều diễm, khả năng, thủy triều, thế kỉ, 
* Hướng dẫn học sinh cách viết hỏi/ngã trong từ Láy
Từ láy là những từ ghép gồm hai (hay nhiều) tiếng mà một trong các tiếng đó hoàn toàn không có nghĩa nếu tách ra riêng lẻ. 
-Ví dụ: buồn bã, liều lĩnh, hoàn hảo, lảo đảo, ... 
Gặp những tiếng chưa có cặp có đôi, thì cố tìm tiếng láy ghép vào cho có cặp, sau đó áp dụng quy tắc: huyền - ngã - nặng; sắc - hỏi - không (luật thuận thanh hay quy tắc hài thanh) hỗ trợ để viết đúng hỏi/ngã. Thí dụ gặp chữ kĩ/kỉ, nếu nghĩa trong câu cho phép ghép được với càng thành kĩ càng thì kĩ dấu ngã (do càng viết dấu huyền). Cách viết hỏi/ngã trong từ láy theo luật thuận thanh có các trường hợp sau:
+ Ngã - huyền: bẽ bàng, buồn bã, lờ lững, ngỡ ngàng, 
+ Ngã - nặng: cãi cọ, đẹp đẽ, giãy giụa, rõ rệt, 
+ Ngã - ngã: bẽn lẽn, bỡ ngỡ, lững thững, 
+ Hỏi - sắc: hối hả, mới mẻ, ngất ngưởng, 
+ Hỏi - không: Bảnh bao, lẻ loi, nghỉ ngơi, sửa sang, 
+ Hỏi - hỏi: đủng đỉnh, lỏng lẻo, lởm chởm, tỉ mỉ, thỏ thẻ, 
Còn có cách tìm xem chữ cùng nghĩa với chữ chưa biết viết hỏi hay ngã thuộc thanh nào, để quyết định theo luật thuận thanh. Thí dụ gặp chữ mảnh vải, chữ cùng nghĩa với mảnh là miếng - thanh sắc, vậy mảnh dấu hỏi. Còn mãnh hổ, mãnh có nghĩa là mạnh - thanh nặng, nên mãnh viết bằng dấu ngã.
Phân môn Chính tả lớp 2 có các dạng bài tập rèn luyện cách viết hỏi/ngã trong từ láy như: Điền dấu hỏi/ngã vào các chữ in nghiêng sau:
 + lặng le, mạnh me, buồn ba, vương vai.
(Bài tập 3b, Tiếng Việt 2, tập 1, tr.85)
Hoặc, chúng ta có thể giới thiệu bài tập dạng: Tạo một từ láy với mỗi tiếng sau đây: củ - cũ; giả - giả; hải - hãi; rả - rã; thẫn - thẫn; 
2.2.3. Giúp học sinh viết đúng chính tả thông qua giải nghĩa từ
- Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn nhưng nó cũng là viêc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
- Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh,
- Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
Ví dụ ở bài tập: Điền vào chỗ trống:
- đổ hay đỗ:  rác, thi , trời  mưa, xe lại.
- rủ hay rũ: Cười  rượi, lá  xuống mặt hồ.
(Bài tập 3b, Tiếng Việt 2, tập 1, tr 25)
Ở bài tập này, học sinh khó phân biệt được đổ/đỗ và rủ/rũ để điền vào chỗ phù hợp. Giáo viên cần phải giải thích nghĩa của các từ cho học sinh hiểu mới có thể làm được. Đổ: (1) nằm xuống mạnh và đột nhiên (cây đổ, nhà đổ); (2) nói xe nghiêng (tàu đổ mất ba toa); (3) chảy ra (đã đổ máu, đổ mồ hôi); (4) gán cho (đổ vạ, đổ tội). Đỗ: (1) với nghĩa dừng lại (tàu đỗ lại); (2) nghĩa đỗ đạt (đỗ tiến sĩ); (3) nghĩa tạm thời (ở đỗ). Hoặc rủ: (1) nghĩa thuyết phục người khác (rủ nhau đi chơi); nghĩa buông thõng (trướng rủ màn che). Còn rũ: nghĩa gục xuống vì hết sinh lực. Việc giúp học sinh giải nghĩa từ giáo viên nên hướng dẫn các em dùng từ điển Tiếng Việt để giải thích nghĩa của từ.
2.2.4. Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. 
* Về âm đầu :
- Phân biệt c/k, g/gh, ng/ngh: Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê. Giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc luật chính tả này để học sinh viết chính xác hơn. 
Ví dụ: Điền vào chỗ trống g hay gh:
 + Lên thác xuống ềnh
 + ạo trắng nước trong
 + i lòng tạc dạ.
(Bài tập 2, Tiếng Việt 2, tập 1, tr 93)
- Để phân biệt âm đầu s/x: Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô
Ví dụ: Điền vào chỗ trống:
s/x: chimẻ, sanẻ, ẻ gỗ. uất khẩu, năng.uất.
* Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn :
- Một số từ có vần “ênh” chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: gập ghềnh, khấp khểnh, lênh đênh ,
- Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, eng éc, xập xình, bình bịch ,
- Vần “uyu” chỉ xuất hiện trong các từ : khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu.
- Vần “oeo” chỉ xuất hiện trong các từ : ngoằn ngoèo, khoèo chân .
- Khi nào thì viết “i” hay “y” : 
+ Khi “i” đứng độc lập thì được viết “y”. Ví dụ : đại ý , như ý, ý chính,
+ Khi “i” đứng sau âm đệm thì được viết “y”. Ví dụ: chuyện, luyến, truyện, khuyên, 
+ Một số trường hợp “i” là bán nguyên âm .Ví dụ: loay hoay, xoáy, quay, ...
+ Trong trường hợp tiếng không có phụ âm đầu thì nguyên âm đôi “iê” được viết là “yê” . Ví dụ : yêu, yên, yết, yếm,
Ví dụ: * Tìm các từ chứa tiếng có vần ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:
 + Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ: (thước kẻ)
 + Thi không đỗ: (trượt)
 + Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh: (Dược sĩ)
 * Tìm các từ chỉ hoạt động:
 + Chứa tiếng bắt đầu bằng d: (dắt, dỗ dành, dạy, ..)
 + Chứa tiếng bắt đầu bằng gi: (giặt, giày, giẻ, )
2.2.5. Giúp học sinh viết đúng chính tả thông qua thực hành – luyện tập với hệ thống các bài tập chính tả về thanh điệu, âm vần dễ nhầm lẫn.
 Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.
- Bài tập trắc nghiệm:
* Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả:
a. Hướng dẩn	b. Hướng dẫn
c. Giải lụa	d. Dải lụa
e. Oan uổng	f. Oan uổn
* Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả:
Rau muốn	Rau muống
Chải chuốc	Chải chuốt
Giặc quần áo	 Giặt quần áo
- Bài tập chọn lựa:
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
 + Cháu bé đang uống  (sửa, sữa)
 + Học sinh ...........mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).
 + Đôi  này đế rất .. (giày, dày)
 + Sau khi . con, chị ấy trông thật  (xinh, sinh)
 + Lan thích nghe kể.hơn đọc.. (truyện, chuyện)
- Bài tập phát hiện:
* Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:
 + Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá.
 + Bức tườn bị nức ngang nức dọc.
- Bài tập điền âm, vần:
* Điền vào chỗ trống:
 + s/x: chimẻ, sanẻ, ẻ gỗ. uất khẩu, năng.uất.
 + ươn/ương: bay l..., b. chải, bốn ph.. , chán ch\
 + iêt/ iêc: đi biền b....., thấy tiêng t/.., xanh biêng b/..
- Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý 
từ đồng âm, từ trái nghĩa
* Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:
 + Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ: 
 + Thi không đỗ:
 + Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh:
* Tìm những từ chứa tiếng có iê hoặc yê:
 + Trái nghĩa với khỏe.
 + Chỉ con vật nhỏ, sống thành đàn, rất chăm chỉ
 + Cùng nghĩa với bảo ban.
 (Bài tập 2, Tiếng Việt 2, tập 1, tr 106)
*Tìm các từ chỉ hoạt động:
+ Chứa tiếng bắt đầu bằng r:
+ Chứa tiếng bắt đầu bằng d:
+ Chứa tiếng bắt đầu bằng gi:
+ Chứa tiếng có vần ươt:
+ Chứa tiếng có vần ươc:
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
+ Trái nghĩa với từ thật thà:
+ Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố:
+ Khung gỗ để dệt vải:
- Bài tập phân biệt:
* Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
+ da- gia	+ ngả - ngã
- Bài tập giải câu đố
* Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau:
Mặt.. òn, mặt lại đỏ gay
Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
Suốt ngày lơ lửng ên cao
Đêm về đi ngủ, .ui vào nơi đâu?
 (là gì?)
2.2.6. Giúp học sinh viết đúng chính tả thông qua trò chơi
Trò chơi là một hoạt động nhằm thu hút học sinh hứng thú học tập sau một giờ học căng thẳng. Vì vậy tôi thường tổ chức trò chơi cuối giờ học chính tả, thường có nội dung sát với chủ đề bài tập tránh sự nhàm chán cho các em.
Ví dụ: Sau bài tập chép “Bạn của Nai Nhỏ”, tôi tổ chức cho học sinh làm BT 3b, TV2, tập 1, trang 25 bằng cách : Cho học sinh thi tìm nhanh những từ ngữ có dấu hỏi / dấu ngã hoặc từ ngữ có âm đầu ng/ngh. Cho các đội chơi cùng trình độ thi tiếp sức, mỗi đội không quá 5 em, viết các từ tìm được theo yêu cầu. Có thể cho các em đặt câu với từ vừa tìm được để hiểu nghĩa của từ.
Kết quả: các em tìm được rất nhiều từ đúng theo yêu cầu
+ Từ ngữ có dấu hỏi/ngã mà các em tìm được là : đổ rác, trời đổ mưa, thi đỗ, xe đỗ lại, bé bỏng, mừng rỡ, hung dữ, bãi cỏ, 
+ Từ ngữ có âm đầu ng/ngh là : ngày tháng, nghỉ ngơi, người bạn, nghề nghiệp, ngăn cản, nghiêm nghị, nghi ngờ, 
 Qua trò chơi nhằm giúp các em khắc sâu được kiến thức đã học các từ.
2.2.7. Hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi và sửa lỗi
 Song song với việc ôn tập gúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh, không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác. 
	* Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả).
	Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công một học sinh giỏi đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để chấm và nhận xét. Trong giờ chính tả, tôi chỉ chấm nhanh khoảng một phần ba lớp. Nhưng giờ ra chơi, tôi cố gắng chấm hết, chấm thật kĩ và ghi nhận xét cụ thể, khen những em có sự tiến bộ. Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, động viên những em còn viết sai nhiều sửa lỗi trong vở bằng cách ghi các từ đó vào giấy nháp từ đúng đã sửa. 
	* Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm nhỏ bằng nhiều hình thức thi đua như: Ai nhanh ai đúng, Tìm nhanh viết đúng,  Các nhóm ghi bài làm của nhóm mình vào bảng nhóm hoặc phiếu bài tập để cả lớp nhận xét, bầu chọn nhóm thắng cuộc.
 2.2.8. Giúp học sinh viết đúng chính tả qua các môn học khác
	Rèn cho học sinh viết đúng chính tả không chỉ rèn trong giờ chính tả hay giờ tập đọc mà rèn cho các em ở các môn học khác như: giờ tập viết cũng cần rèn cho các em viết đúng chính tả, đúng mẫu chữ, đều nét, viết đúng mẫu chữ hoa. Các em chỉ rèn viết đẹp quên chú ý đến lỗi chính tả, do đó cũng còn rơi rớt một số em còn viết sai ở câu ứng dụng trong bài viết.
	Ví dụ: Học sinh viết câu “Ăn chậm nhai kĩ” trong phân môn tập viết (TV2, tập 1, trang 17) như sau: Ăn chậm nhai kỉ.
	Có 03 em (Trực, Tuyết, Trâm) viết “nhai kĩ” thành “nhai kỉ”. Tôi đã hướng dẫn các em sữa ngay thành “nhai kĩ” và giúp các em hiểu nghĩa từ để phân biệt từ đúng: “nhai kĩ” với từ sai “nhai kỉ” (trong tự kỉ, kỉ luật).
Hoặc học sinh viết câu “Chia ngọt sẻ bùi” (TV2, tập 1, trang 35) thành “Chia ngọt sẽ bùi”. Tương tự cách trên, tôi đã hướng dẫn học sinh sửa sai ngay.
	* Đối với phân môn Luyện từ và câu:
Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập 1 (TV2, tập 1, trang 35), em Bảo Trâm đã tìm được một số từ chỉ người, trong đó có từ bác sỉ, kỉ sư viết sai chính tả. Tôi đã hướng dẫn em sửa sai và viết lại “bác sĩ, kĩ sư”, đồng thời giúp em hiểu nghĩa và cách sử dụng của các từ đó, phân biệt “sĩ” trong từ “bác sĩ” với “sỉ” trong từ “vô liêm sỉ” hay phân biệt với “kỉ” trong từ “tự kỉ”, “kỉ luật”, 
	Đối với phân môn Tập làm văn cũng vậy, tôi luôn rèn cho các em đọc đúng, viết đúng, trả lời đúng sau những câu gợi ý hoặc tranh minh hoạ, đó cũng giúp cho các em nói đúng, viết đúng. Trong các bài văn viết về một đoạn văn ngắn từ 5 - 7 câu vẫn còn sai lỗi thông thường như thanh hỏi, thanh ngã, âm, vần
	Đối với môn Đạo đức và môn Tự nhiên - xã hội, tôi cũng luôn sửa lỗi sai trong các lần làm bài tập và nhắc nhở các em chú ý.
	Tôi luôn kiểm tra vở bài tập chính tả, chú ý đến học sinh chậm tiến bộ nhiều hơn, học sinh hay mắc lỗi, phát hiện lỗi sai và hướng dẫn cho các em viết lại nhiều lần ra giấy nháp.
Tóm lại, trên thực tế, các biện pháp nêu trên cần được tiến hành một cách đồng thời và liên tục trong mỗi tiết dạy. Bởi không thể ngày một ngày hai mà học sinh hình thành được kĩ năng mà cần phải có một quá trình lâu dài và kiên trì. Cũng không thể rèn kĩ năng cho tất cả các học học sinh trong cùng một lúc mà phải biết nên tập trung rèn kĩ năng cho học sinh nào trước, học sinh nào sau.
2.3. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
 Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy học sinh lớp tôi có tiến bộ rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả hơn. Không chỉ ở phân môn Chính tả mà sự tiến bộ của học sinh thể hiện ngày càng rõ nét trong các bài làm của phân môn khác như viết Tập làm văn, làm lời giải toán có lời văn,Với những học sinh đã viết đúng chính tả thì các em viết ngày càng đẹp và đều nét hơn.
Bảng 2. Kết quả bài kiểm tra chính tả tra cuối học kỳ 1 năm học 2014 – 2015 của học sinh lớp tôi như sau: 
Tổng số HS
HS viết đúng chính tả
HS viết sai 
1- 2 lỗi
HS viết sai 
3- 4 lỗi
HS viết sai trên 5 lỗi
SL
TL (%)
SL
TL (%)
SL
TL (%)
SL
TL (%)
25
22
88
2
8
1
4
0
0
Mặt khác, kết quả Ngày hội viết chữ đẹp cấp trường vừa được tổ chức, học sinh lớp tôi đã đạt được 2/4 giải nhất, 2/4 giải nhì.
* Đánh giá kết quả đạt được: Qua bảng thống kê 2 cho thấy số học sinh viết đúng chính tả là 22 em, chiếm tỉ lệ 88% (tăng so với đầu năm là 7 em) ; số học sinh viết sai 1 – 2 lỗi chính tả là 2 em, chiếm tỉ lệ 8% (giảm 2 em so với đầu năm) ; số học sinh viết sai chính tả 3 – 4 lỗi là 1 em, chiếm tỉ lệ 4% (giảm 03 em so với đầu năm) ; số học sinh viết sai 5 – 6 lỗi không có em nào (giảm 2 em so với đầu năm). Kết quả đạt được cho thấy bước đầu các biện pháp mà tôi đã áp dụng đem lại hiệu quả tích cực trong việc rèn kĩ năng viết chính tả cho học sinh lớp tôi, trường tôi nói riêng và học sinh tiểu học nói chung.
2.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 - Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy - học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
- Ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt, giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,  từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
- Với giáo viên, việc nắm chắc quy tắc, vận dụng vào từng bài tập một cách phù hợp để rèn luyện cho học sinh rất quan trọng và cần thiết. Mặt khác, qua thói quen giao tiếp nói và viết hàng ngày giúp các em viết đúng chính tả hơn nên mọi lúc, mọi nơi giáo viên phải là người mẫu mực trong khi viết để học sinh có cơ hội học tập theo. Giáo viên luôn phải tự học để nắm được quy tắc, căn cứ, cơ sở khoa học của việc nói, viết đúng chuẩn; Thường xuyên đọc sách báo, viết bài luận để có thói quen dùng từ và viết chính xác.Việc rèn luyện phải được thực hiện thường xuyên, tổ chức một cách bài bản, dựa trên những quy tắc, căn cứ khoa học nhất định nhằm tạo cho HS thói quen viết đúng chính tả, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, từng bước hình thành nhân cách của trẻ. 
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Nhà trường Tiểu học là cái nôi đầu tiên giáo dục trẻ em khi các em bước vào tuổi đi học. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải coi trọng việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, đặc biệt là kỹ năng viết đúng chính tả. Bởi vì, một khi đã trở thành thói quen viết không đúng thì sau này lớn lên khó sửa chữa được. Sáng kiến này nhằm mục đích nói trên.
Qua triển khai sáng kiến ở cơ sở bước đầu đã thu được những kết quả sau:
- Đã đưa ra được một số biện pháp và ví dụ minh hoạ để rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2 mà tôi trực tiếp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt và đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, linh hoạt và sáng tạo của học sinh.
- Việc áp dụng các biện pháp nêu trên cho thấy bước đầu các biện pháp này đã đem lại hiệu quả và có tính khả thi
Song bên cạnh đó, sáng kiến này còn một số hạn chế nhất định :
Các biện pháp trên mới chỉ áp dụng rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2 mà tôi đang chủ nhiệm.
3.2. Đề xuất
Nên chăng cần tổ chức các chuyên đề sinh hoạt chuyên môn về rèn kĩ năng viết chính tả để trao đổi, rút kinh nghiệm (trong tổ, trong trường hoặc liên trường)
Những kết quả đạt được của sáng kiến mới chỉ là bước đầu. Tác giả đề tài hi vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những hạn chế và mở rộng phạm vi ứng dụng của sáng kiến. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của chuyên môn, đồng nghiệp và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này.
Xin chân thành cảm ơn !

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_dung.doc
Sáng Kiến Liên Quan