Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3 vùng dân tộc thiểu số

Năm học 2014 - 2015 là một trong những năm học thực hiện các cuộc vận động lớn của ngành giáo dục như: Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đẩy mạnh cuộc vận động "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo", và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ; Tập trung chỉ đạo đổi mới quản lý, đổi mới tổ chức dạy học theo hướng dạy học tích cực; Tăng cường giáo dục đạo đức, kĩ năng sống; thực hiện chất lượng mục tiêu, nội dung và hình thức giáo dục toàn diện. . Để thực hiện được các nội dung vừa nêu người giáo viên phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách giáo dục đối với học sinh.

 Năm học 2014 - 2015 là năm thứ 3 thực hiện thể nghiệm chương trình “Trường Tiểu học mới VNEN” mà trường đang thực hiện. Bên cạnh những mặt thuận lợi mà chương trình đem lại thì bên cạnh đó cũng có một số nhũng mặt còn chưa được thuận lợi khi áp dụng tại trường nhưng vẫn còn một số học sinh giao tiếp chưa được tốt, lời nói, diễn đạt lời chưa được trôi chảy, ngôn ngữ còn nhiều hạn chế.

Trong cuộc sống xã hội, quan hệ giữa người với người, quá trình hoạt động trong mọi lĩnh vực, giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng. Con người có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện thông thường và quan trọng nhất là ngôn ngữ. “Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, sự cộng tác giữa các thành viên trong xã hội”.

 Trong quá trình dạy và học, giao tiếp càng đóng vai trò quan trọng hơn. Nhưng ở bậc tiểu học, học sinh cần phải rèn luyện kĩ năng giao tiếp. Nó được thể hiện hai phương diện “Nói-viết”

 

doc12 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 18433 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3 vùng dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Trong nhà trường không chỉ dạy các em viết, thực hành trên giấy mà còn dạy các em biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một việc làm vô cùng quan trọng.
 Căn cứ theo:
 - Kế hoạch và nhiệm vụ của ngành theo chủ đề năm học 2014-2015 và theo mục tiêu của trường Tiểu học mới VNEN Giao tiếp của học sinh cũng là một mục tiêu lớn mà chương trình đề ra.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
 1, Đặc điểm tình hình của nhà trường:
Trường Tiểu học Nậm Cắn 1 đóng chân trên địa bàn thuộc xã biên giới cách trung tâm huyện nhà hơn 20 Km, xã nhà là vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, phía tây giáp với nước bạn Lào, điều kiện kinh tế xã nhà còn gặp nhiều khó khăn, dân cư chủ yếu là người dân tộc thiểu số, dân trí thấp, công việc không ổn định, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn. Thêm vào đó là cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn tuy thuận lợi cho việc giao thương buôn bán nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, đặc biệt là tệ nạn xã hội. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh. Nhưng nhà trường đã biết vượt qua khó khăn để xây dựng một ngôi trường có cơ sở vật chất khang trang, đầy đủ và có đội ngũ giáo viên chất lượng. 
 	*Cơ sở vật chất nhà trường:
- Có 4 điểm trường
- Cổng, hàng rào kiên cố, có đầy đủ các phòng học.
- Khuôn viên nhà trường xanh - sạch - đẹp - an toàn.
 	*Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường năm học: 2014 - 2015 nhà trường có: 
 Tổng số cán bộ, GV, NV: 42 người, Nữ: 34 người 
 	Trong những năm qua, được sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp, cùng với sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường, sự chăm lo của đại đa số phụ huynh đến việc học tập của con em, cùng với sự nhiệt tình tâm huyết của giáo viên nên phong trào học tập của học sinh ngày càng phát triển và nâng cao cả quy mô lẫn chất lượng. Nhà trường luôn được đánh giá là trường có chất lượng giáo dục cao của ngành Giáo dục Huyện nhà, trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công mà nhà trường đạt được thì vẫn còn tỉ lệ học sinh giao tiếp chưa được tốt của nhà trường hằng năm vẫn còn. 
2, Thực trạng chung của lớp:
 a, Đặc điểm chung:
 	Mỗi một em học sinh ở vùng đặc biệt khó khăn nói chung cũng như trường của chúng tôi nói riêng, biết dùng tiếng phổ thông để diễn đạt một nội dung cho đầy đủ các ý là ít có em làm được như vậy. Vì thế giao tiếp đóng vai trò quan trọng hàng đầu và xuyên suốt trong quá trình học môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Vì vậy, trong dạy học người giáo viên cần phải rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh để các em có điều kiện và cơ sở học tốt các môn khác, khi các em ra xã hội có sự mạnh dạn, am hiểu cuộc sống trong đời sống hiện na, cũng như đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay.
	Năm học 2014-2015, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3, tổng số học sinh 20 em trong đó có 10 học sinh nam và 10 học sinh nữ, 100% là con em dân tộc Mông, đa số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chưa có sự quan tâm chu đáo, chặt chẽ của cha mẹ nên các em ở đây có một thực tế đáng quan tâm là khả năng giao tiếp còn hạn chế. Hơn nữa, một số em ít có điều kiện tiếp xúc nơi đông người nên còn nhút nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu chưa tự tin trong luyện nói, một số em nói năng cộc lốc, không biết diễn đạt hết ý của mình.
	Qua phân tích tổng hợp khả năng giao tiếp của học sinh, tôi thống kê chất lượng học sinh đầu năm như sau:
Khả năng giao tiếp
Số học sinh
Tỉ lệ (%)
Nói tốt
5
25
Tạm được
6
30
Chưa được
9
45
b, Nguyên nhân
*Về phía giáo viên: 
Các em học sinh là dân tộc Mông nên ngô ngữ của các em còn nhiều hạn chế, nói tiếng phổ thông nhiều em còn chưa thành thạo. Đa số các em là con nhà nghèo nên được tiếp xúc với những người dân Kinh. Các em được ít tham gia vào các hoạt động ngoại khóa nên sự mạnh dạn khi hoạt động với bạn là chưa có.
*Về phía giáo viên: 
Nguyên nhân học sinh học giao tiếp chưa tốt không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh nhút nhát, chưa mạnh dạn trước tập thể, e ngại khi gặp người ngoài Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa dạy học bám sát chương trình dạy học mới. Chưa thật sự gần gũi, quan tâm tìm hiểu và đến từng nhà các em học sinh đẻ biết hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. 
c, Giải pháp
* Nắm tình hình học sinh qua bàn giao công tác chủ nhiệm.
	Ngay từ đầu năm học, nhà trường chỉ đạo cho giáo viên các khối lớp bàn giao công tác chủ nhiệm, nhờ thế tôi nắm được tình hình chất lượng và các mặt hoạt động khác của từng học sinh trong lớp. Từ đó, tôi lập kế hoạch chủ nhiệm - hình thành bộ máy hội đồng tự quản của lớp, thành lập các ban, biên chế ban học tập, ban văn nghệ, đôi bạn học tập theo tình hình chất lượng lớp tạo điều kiện cho các em được học tập lẫn nhau.
* Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh
	Sau khi khảo sát chất lượng đầu năm và qua một tháng giảng dạy tôi đã bắt đầu theo dõi và phân loại học sinh theo các nhóm sau:
	- Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
	- Nhóm học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên, chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
	- Nhóm học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp, hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
	Sau khi phân tích đặc điểm cũng như giao tiếp của từng học sinh trong lớp, tôi tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối tượng học sinh nêu trên trong các nhóm.
	Ưu điểm của biệp pháp này: Các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn”
	Trong quá trình học tập đua thầy, đua bạn sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói.
	Sự giúp đỡ động viên của các bạn trong lớp, trong nhóm sẽ giúp các em tự tin hơn trước lời phát biểu của mình.
* Xây dựng môi trường học tập thân thiện
 	- Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong giao tiếp, trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
 	 - Tôi luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
*Rèn kỹ năng mạnh dạn
Vào đầu năm học cũng như duy trì cho tới hết năm học, tôi thường cho các em tự giới thiệu trước tập thể lớp vào giờ sinh hoạt 15 cũng như các tiết sinh hoạt cuối tuần như:	
- Em tên là gì?
	- Em học trường nào?
	- Năm nay em bao nhiêu tuổi?
	- Cô hiệu trưởng tên là gì?
	- Em ở bản nào?
	- Em thích học môn gì?
	- Bố mẹ em làm gì?
	- Mơ ước của em sau này sẽ làm gì?
	- Thường ngày em làm những việc gì?
Tôi hình thành cho các em tự hỏi và tự trả lời sau đáo bạn hỏi mình trả lời, từ đó hình thành được các câu hỏi và câu trả lời đầy đủ nội dung, có chủ ngữ vị.
Nhà tôi cách trường hơn 20 km nên buổi trưa tôi không về mà ở lại trường và thường xuyên ở lại tại lớp học. Học sinh thì đi học rất sớm nên thầy và trò thường xuyên trao đổi, trò truyện với nhau những vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sông hằng ngày từ đó đã tạo nên sự gần gũi giữa thầy và trò cũng như rèn thêm cho học sinh sự mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Cũng từ đó rèn thêm ngôn ngữ nói tiếng phổ thông cho các em.
Học sinh tự giới thiệu
* Đổi mới phương pháp dạy học nhằm rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh.
	Đổi mới phương pháp dạy học là dạy và học theo hướng tích cực chủ động, sáng tạo trong đó học sinh phải tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới theo sự tổ chức và hướng dẫn hợp lý của giáo viên trong môi trường giáo dục thích hợp nhằm thực hiện các mục tiêu giáo dục của bậc học, của môn học, của bài học.
	Trường chúng tôi may mắn được thực hiện mô hình trương tiểu học mới VNEN nên việc tổ chức dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự tự học, tự chiếm lĩnh tri thức thông qua sự hướng dẫn của giáo viên và việc bố trí, sắp xếp chỗ ngồi của học sinh nó khác với chương trình cũ, hầu hết là hình thức ngồi học theo nhóm. Do đó nó phát huy được tính tự học và tự trình bày trước tập thể rất nhiều cũng từ đó rèn cho các em tính mạnh dạn trước tập thể.
	Một trong những nội dung của việc đổi mới phương pháp là đưa các hình thức dạy học mới vào trong từng bài học. Vì thế, để rèn kỹ năng giao tiếp cho các em, tùy từng bài học lựa chọn hình thức dạy học phù hợp.
	Ví dụ: - Thảo luận nhóm:
	Thảo luận nhóm là hình thức dạy học rất có ích trong việc hình thành cho học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ. Vì vậy, đối với các môn học mục tiêu là rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh tôi thường vận dụng hình thức này như đối với phân môn Tập làm văn khi thực hành các yêu cầu như: Tự tổ chức cuộc họp tổ, nhóm; trình bày bài làm miệng trước lớp; kể về gia đình em với người bạn mới quen; ... Tôi thường cho học sinh thảo luận nhóm đôi để thực hiện bài tập, sau đó các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình.
Học sinh lớp 3A hoạt động theo nhóm
- Trò chơi học tập:
	Trò chơi học tập là hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là những em ngại nói, tức là ngại giao tiếp, trò chơi học tập sẽ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập. Thông qua trò chơi, học sinh được luyện tập, làm việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công và tinh thần hợp tác. Trò chơi tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn thiện kỹ năng giao tiếp của chính mình.
	Các trò chơi học tập có thể tổ chức cho học sinh trong giờ tự học, giờ ra chơi hoặc giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học. Qua các trò chơi này, học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa được học, từ đó sẽ nhớ bài và vận dụng vào việc giao tiếp trong đời sống hằng ngày.
	Ví dụ: Trò chơi phỏng vấn (Bài tập 1, tiết 3 của phân môn Tiếng việt)
	Luyện cho học sinh cách tự giới thiệu về gia đình mình với bạn bè hoặc người xung quanh.
	Cách chơi: Một học sinh giới thiệu về gia đình mình (quê quán, gia đình gồm có mấy người, nói về từng người trong gia đình, mọi người sống với nhau như thế nào,...)
	Một học sinh khác làm phóng viên phải giới thiệu lại từng bạn với cả lớp. Nội dung giới thiệu phải chính xác, cách giới thiệu rõ ràng. Cho nhiều học sinh làm phóng viên, sau đó bình chọn phóng viên giỏi nhất.
	*Rèn kỹ năng hội thoại.
	Đây là hình thức học tập được áp dụng nhiều ở phân môn kể chuyện qua bài tập “Phân vai dựng lại câu chuyện”. Để học sinh có kỹ năng giao tiếp tốt, giáo viên cần chú ý cho học sinh có tư thế giọng kể thích hợp. Đặc biệt nắm vững nội dung câu chuyện định kể.
	Ví dụ: Câu chuyện “Người mẹ”
	Giáo viên có thể cho học sinh tham gia dựng lại câu chuyện như sau:
	- Các nhân vật: 	- Bà mẹ
	- Thần Đêm Tối
	- Bụi gai
	- Hồ nước
 - Thần Chết	 
	- Phần 1: Bà mẹ chạy ra ngoài hớt hải gọi con, Thần Đêm tối đóng giả bà cụ, mặc áo choàng đen.
	- Phần 2: Bà mẹ gặp bụi gai .
 - Phần 3 : Bà mẹ gặp hồ nước và Thần Chết 
	- Chọn vai: chọn học sinh phù hợp với từng nhân vật.
	- Học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm thái độ (Qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, lời nói...) của nhân vật trong câu chuyện
	- Giáo viên hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật.
	- Học sinh trình diễn. 
	- Cả lớp nhận xét, bình chọn học sinh diễn xuất giỏi để biểu dương khen thưởng.
	Ngoài ra, hình thức học tập này cũng được áp dụng nhiều ở môn Đạo đức qua bài tập “Đóng vai theo tình huống cho sẵn”.
	Ví dụ: Bài tập 5 (Bài 10) “Đóng vai theo tình huống thể hiện sự tôn trọng khách nước ngoài”.
	- Học sinh phải xác định được yêu cầu của bài tập.
	- Thảo luận, phân công một học sinh nêu tình huống, một học sinh nêu cách giải quyết rồi làm ngược lại.
	Học sinh thảo luận để tìm ra nhiều cách diễn đạt khác nhau (về lời nói, cử chỉ, nét mặt) để sửa và bổ sung cho nhau.
	- Đại diện các cặp trình bày trước lớp.
	- Học sinh dưới lớp nhận xét bổ sung, bình chọn người đóng vai đúng và hay nhất.
	* Thông qua hoạt động ngoại khóa
	Trong tháng trường thường tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh như: Rung chuông vàng, các trò chơi dân gian, hát dân ca các giáo viên kết hợp với tổng phụ trách đội tổ chức các cuộc thi, trò chơi tạo niềm vui, học hỏi, kiểm tra kiến thức lẫn nhau của các em. Từ đó cũng rèn sự mạnh dạn, tự tin với các bạn trong trường cũng như mọi người. 
	*Động viên khen thưởng:
	Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở là một trong năm nội dung của cuộc vận động. Trong mọi tiết dạy, tôi luôn gần gũi, động viên các em, quan tâm hơn đến những em ít nói, thụ động, những câu hỏi dễ thường dành cho những em đó trả lời để các em cùng tham gia nói, tạo sự tự tin trong các em. Sử dụng thông tư 30 đển đánh giá nhận xét học sinh, đối với những em khá giỏi, tôi khuyến khích gợi mở bằng những câu hỏi khó hơn một chút để các em mạnh dạn trình bày ý kiến của mình, kích thích sự hứng thú ham học giỏi của các em. Còn các em học còn chưa nắm được bài thì sử dụng lời khen đầu và nêu ra biện pháp để học sinh sửa lỗi. 
Ví dụ: Những em còn e dè, nhút nhát tôi thường xuyên chỉ đạo hướng dẫn cho nhóm trưởng cho trình bày phát biểu trước nhóm nhiều và tôi cũng thường xuyên cho những học sinh đó phát biểu trước lớp nhiều hơn.
	* Rèn kỹ năng giao tiếp thông qua các môn học khác
	Năm học này dưới sự chỉ đạo của phòng giáo dục nhà trường đã triển khai thực hiện dạy học môn “Giáo dục kỹ năng sống”. Hằng tuần mỗi tiết học chúng tôi đều thực hiện đầy đủ các tiết học, qua các bài học các em nắm được nội dung và áp dụng vào thực tế. Ví dụ: Bài “Hạnh phúc của em” tôi cho các em nêu Hạnh phúc là như thế nào? để mỗi em tự mình biết được Hạnh phúc rồi sau đó mới đưa ra định nghĩa về hạnh phúc. Qua đó các em hiểu hạnh phúc là yêu thương và chia sẻ cũng từ đó các em biết yêu thương mọi người trong gia đình cũng như trong lớp, trong trường học.
	Hay dạy bài “Lớp học vui” tôi đã tổ chức cho lớp một không khí vui nhộn bằng cách: Tổ chức cho lớp hát bài: “Lớp chúng mình rất vui” sau đó từng em học sinh lên lớp biểu diễn bài hát này cũng có thể bài hát khác. Tổ chức trò chơi: ‘Rồng rắn lên mây” trong bài học. Tạo nên một không khí vui nhộn cũng như rèn được sự mạnh dạn trước tập thể cho học sinh.
Một hoạt động trong bài học của lớp 3A
Trước khi có phân môn này thì tôi đã áp dụng tiết “Giao tiếp Tiếng việt” để giảng dạy mỗi tuần một tiết. Thông qua các tiết học các em tự giới thiệu trong nhóm, hỏi đáp hay lên trước lớp giới thiệu: về bản thân, về gia đình, làng bản, đất nước hay nói theo chủ điểm trong phân môn Tiếng việt.
	Môn “Giáo dục ngoài giờ lên lớp” cũng góp phần khá lớn vào việc giao tiếp của học sinh. Có những bài học được thực hiện ngoài lớp học như bài: “Tham quan các di tích lịch sử ở địa phương”. Tôi tổ chức cho các em đi tham quan di tích ở trong xã nhà: Đài tưởng niệm liệt sĩ. Trước khi đi tôi giao nhiệm vụ cho các em và sau khi về báo cáo lại, sau tiết học các em đã học hỏi, trao đổi lẫn nhau và được trải nghiệm vào thực tế. Cũng có những bài học thường có các tình huống và xử lý tình huống, lớp tôi thuận lợi là học sinh hình thức tổ chức là học nhóm nên tôi chỉ giao cho nhóm trưởng tình huống là nhóm trưởng biết phân công nhiệm vụ cho các thành viên của mình diễn vai nào, nhân vật nào. Thông qua các tình huống, lời nhân vật giúp các em biết diễn đạt lời nói, ngôn ngữ của mình hơn.
*Giữ mối quan hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh
	Trong các cuộc họp phụ huynh học sinh tôi luôn đề cao việc học tập và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, cùng với phụ huynh thường xuyên kiểm tra bài làm và cũng như sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh. Sự chuẩn bị bài của các em, đã làm cho các em tự tin hơn khi phát biểu bài trước lớp. Hơn nữa phụ huynh là người tiếp xúc nhiều nhất với các em khi ở nhà, người trực tiếp dạy dỗ chỉ bảo các em từng lời ăn tiếng nói khi tiếp xúc với mọi người xung quanh, nhất là ở hàng xóm láng giềng, phụ huynh cần nhắc nhở các em nói năng lễ phép và mạnh dạn hơn.
PHẦN III: KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
	Qua thời gian rèn luyện cho các em như đã nêu ở trên, lớp tôi đã đạt được những kết quả đáng kể như sau:
	- Đa số các em có khả năng, tự tin giao tiếp với mọi người xung quanh rất tốt, các em nhận thức được cần lễ phép với mọi người trên, phải xưng hô đúng cách, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp. Nói chung khả năng giao tiếp của các em đạt yêu cầu.
	- Kết quả cụ thể:
Khả năng giao tiếp
Số học sinh
Tỉ lệ (%)
Nói tốt
15
75
Tạm được
5
25
Chưa được
0
0
II. KẾT LUẬN
	Dạy Tiếng Việt cho học sinh trong nhà trường, nhất là học sinh vùng dân tộc thiểu số là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt, một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. 
	Hơn nữa, việc dạy tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học sinh một số những khái niệm hay qui tắc ngôn ngữ mà mục đích cuối cùng cần phải đạt đến lại là việc giúp các em có được kỹ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Học sinh không thể chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngôn ngữ Tiếng Việt, mà không có khả năng sử dụng những hiểu biết ấy vào giao tiếp. Ngoài ra, việc dạy đóng vai các tình huống trong môn Đạo đức cũng có vai trò rất quan trọng trong việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Tóm lại, rèn kỹ năng giao tiếp là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Do vậy tôi đã bước đầu nghiên cứu và áp dụng các hình thức nhằm giúp việc giảng dạy đạt hiệu quả như:
 - Nắm tình hình học sinh qua bàn giao công tác chủ nhiệm.
 - Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh.
 - Đổi mới phương pháp dạy học.
 - Rèn kĩ năng hội thoại.
 - Động viên khen thưởng.
 - Giữ mối quan hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh.
 Tôi thiết nghĩ mỗi người giáo viên biết cách khơi gợi, kích thích và tổ chức cho học sinh nói năng, hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩa của mình một cách hồn nhiên là điều giáo viên cần làm.
	Đây là một số trăn trở của tôi khi thực hiện công tác giảng dạy của mình, trong đó phần “Luyện nói” cũng là một trong những băn khoăn của rất nhiều giáo viên là làm sao giúp cho học sinh của mình cùng dễ dàng tham gia vào quá trình rèn kỹ năng giao tiếp, qua việc các em tự diễn đạt, trao đổi những cảm nghĩ, xúc cảm, tình cảm của mình trước một sự kiện, việc làm nào đóLàm được như thế chúng ta đã góp phần nho nhỏ thực hiện thành công trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay.
Trên đây là một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp gần, xa có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh giao tiếp còn hạn chế là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình. Trên là những biện pháp mà bản thân tôi đã vận dụng trong quá trình công tác và nó đã góp phần đem lại cho tôi một số kết quả khả quan. 
Nhưng vì khả năng có hạn nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự hỗ trợ góp ý chân thành của Ban giám khảo, bạn bè đồng nghiệp gần xa nhằm giúp tôi hoàn thiện hơn trong công tác.
III. ĐỀ NGHỊ
- Nhà trường thường xuyên tổ chức sinh hoạt ngoại khóa để học sinh có điều kiện phát huy giao tiếp.
- Phụ huynh cần quan tâm đến việc giao tiếp trong gia đình, hàng xóm, bạn bè...
 Nậm Cắn, ngày 10 tháng 4 năm 2015 

File đính kèm:

  • docSang_kien_kinh_nghiem.doc
Sáng Kiến Liên Quan