Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh qua dạy học môn Toán
Cơ sở lí luận:
“Tự học chính là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng năng lực trí tuệ (quan sát,
so sánh, phân tích, tổng hợp ) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng
các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan,thế giới quan (như
trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại,
lòng say mê khoa học,.) để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hửu của mình”.
Điều đó cho thấy cốt lõi của việc học là tự học. Học là một đặc trưng của con
người, trong đó: học đóng vai trò chủ thể còn tri thức khoa học là đối tượng để chiếm
lĩnh. Hoạt động tự học là một quá trình tự giác, tích cực, tự chiếm lĩnh tri thức khoa
học bằng hành động của chính mình hướng tới những mục đích nhất định. Do đó, để
hoạt động học có hiệu quả, quá trình tổ chức dạy học phải làm cho hoạt động học của
học sinh chuyển sang tự học.
Dạy học “lấy người học làm trung tâm” là phương pháp giảng dạy hiện nay
đang từng bước được áp dụng rộng rãi thay cho cách học theo kiểu “thầy đọc trò chép”.
Khi áp dụng phương pháp dạy học này, giáo viên đặt vấn đề định hướng trò tự lực tìm
tòi thông qua đó tự thu nhận kiến thức cho mình. Rõ ràng việc áp dụng phươg pháp này
cũng chính là rèn khả năng tự học của học sinh, nó được coi như một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học và là mục tiêu của quá trình dạy học. Vì vậy, cần rèn luyện cho
người học có được những kĩ năng, phương pháp thói quen tự học, biết linh hoạt ứng
dụng những tình huống đã học vào tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết
vấn đề đặt ra thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tìm năng vốn có trong mỗi
người. Làm được như vậy thì học tập sẽ đạt kết quả cao và đó là nhân tố đảm bảo thắng
lợi khi thực hiện phương pháp lấy người học làm trung tâm.
n và cơ sở thực tiễn: 1. Cơ sở lí luận: “Tự học chính là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan,thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học,..) để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hửu của mình”. Điều đó cho thấy cốt lõi của việc học là tự học. Học là một đặc trưng của con người, trong đó: học đóng vai trò chủ thể còn tri thức khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Hoạt động tự học là một quá trình tự giác, tích cực, tự chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng hành động của chính mình hướng tới những mục đích nhất định. Do đó, để hoạt động học có hiệu quả, quá trình tổ chức dạy học phải làm cho hoạt động học của học sinh chuyển sang tự học. Dạy học “lấy người học làm trung tâm” là phương pháp giảng dạy hiện nay đang từng bước được áp dụng rộng rãi thay cho cách học theo kiểu “thầy đọc trò chép”. Khi áp dụng phương pháp dạy học này, giáo viên đặt vấn đề định hướng trò tự lực tìm tòi thông qua đó tự thu nhận kiến thức cho mình. Rõ ràng việc áp dụng phươg pháp này cũng chính là rèn khả năng tự học của học sinh, nó được coi như một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học và là mục tiêu của quá trình dạy học. Vì vậy, cần rèn luyện cho người học có được những kĩ năng, phương pháp thói quen tự học, biết linh hoạt ứng dụng những tình huống đã học vào tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết vấn đề đặt ra thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tìm năng vốn có trong mỗi người. Làm được như vậy thì học tập sẽ đạt kết quả cao và đó là nhân tố đảm bảo thắng lợi khi thực hiện phương pháp lấy người học làm trung tâm. 2. Cơ sở thực tiễn Trong năm học 2016-2017 tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5A1 với sĩ số 37 học sinh. Trong đó: Nữ: 20 em, dân tộc: 3 em; nữ dân tộc: 1 em. Sau khi nhận lớp, tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau: 3 2.1. Về giáo viên 2.1.1. Thuận lợi - Ban giám hiệu tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên thực hiện nâng cao ý thức tự học cho học sinh: Trang bị sách báo có liên quan, Internet giúp giáo viên lấy thông tin và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp. . . - Sự nhiệt tình của giáo viên trong việc giáo dục cho học sinh của mình tính tự học. 2.1.2. Khó khăn - Kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên còn hạn chế. Đây là năm học đầu tiên được phận công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5 theo mô hình VNEN 2.2. Về Học sinh 2.2.1. Thuận lợi - Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 5, học sinh người Kinh, nhiều em đã ý thức được việc phải tự học và cũng có quyết tâm học rất cao. - Lớp được tổ chức dạy và học theo mô hình VNEN, với HĐTQ đã có những kiến thức cơ bản trong điều hành nhóm và tổ chức cho các bạn tự học. 2.2.2. Khó khăn - Sĩ số học sinh đông ảnh hưởng đến mặt tổ chức lớp, một số học sinh thiếu mạnh dạn và rụt rè, e ngại chưa dám bộc lộ ý kiến của mình và sự trì trệ trong học tập. - Chất lượng học sinh chưa đồng đều, một số học sinh còn quá yếu, chưa theo kịp các bạn trong lớp, trong môn Toán thiếu sự tích cực, chủ động, sáng tạo cũng như sự linh hoạt, không có sự tìm tòi, tự giác giải quyết các bài tập. Phần lớn, các em còn có thái độ trông chờ vào sự hướng dẫn hay giải của giáo viên hay vào lớp mượn bài chép của bạn là xong, không cần phải suy nghĩ. - Học sinh chưa nắm vững các kiến thức cơ bản trong môn Toán hay kiến thức bị hổng quá nhiều nên việc vân dụng vào tính toán, giải toán gặp nhiều khó khăn. 2.3. Về phía phụ huynh học sinh 2.3.1. Thuận lợi: - Phụ huynh chuẩn bị đủ sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh. 4 2.3.2. Khó khăn - Trường thuộc địa bàn dân cư có thu nhập thấp, đa phần là tạm trú, trình độ dân trí chưa cao. Phụ huynh lo làm ăn kiếm sống từng ngày, chưa quan tâm đúng mức đến việc tự học của con em mình, chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc này. Không đôn đốc con em học tập ở nhà. 2.4. Khảo sát khi chưa áp dụng sáng kiến Việc khảo sát này giúp tôi nắm được thực trạng của học sinh trước khi thực hiện sáng kiến từ đó có được biện pháp thích hợp giúp đỡ học sinh. Sau khi khảo sát tôi đã nhận được kết quả như sau: Bảng 1: Mức độ tự giác trong học tập môn toán của học sinh HS tự giác cao HS biết tự giác HS chưa tự giác TS HS Tổng số Tỉ lệ Tổng số Tỉ lệ Tổng số Tỉ lệ 37 9 24,32% 13 33,33% 15 42,35% Ngoài việc khảo sát mức độ tự học của học sinh, đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học môn toán của học sinh. Bảng 2: Chất lượng học tập môn toán của học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu TS HS T.số Tỉ lệ T. số Tỉ lệ T.số Tỉ lệ T.số Tỉ lệ 37 2 5,41% 5 13,51% 11 29,73% 19 51,35% II. Một số biện pháp phát triển năng lực tự học của học sinh qua dạy học môn Toán Trước khi giáo dục tính tự học cho học sinh, giáo viên cần tìm hiểu xem để thực hiện được điều đó cần có những điều kiện nào? Có hai điều kiện không thể thiếu: đó là cách học và sự say mê hứng thú học tập. Vì khi đã có cách học tức các em đã biết cách làm việc độc lập cộng với niềm say mê hứng thú học tập thì các em sẽ tự giác học. Có cách học với tinh thần tự giác, say mê học tập chắc chắn các em sẽ có tính tự học. Trong quá trình dạy học người giáo viên cần có ý thức xây dựng phát triển cho 5 học sinh niềm say mê, hứng thú học tập cũng như hình thành cho các em cách tự học. Từ quan điểm nêu trên tôi xin đưa ra một số biện pháp như sau: 1. Họp phụ huynh dầu năm Thông qua cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã phổ biến cho phụ huynh biết được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc tự học đối với học sinh. Từ đó phối hợp với phụ huynh chuẩn bị tốt các đồ dùng học tập và dành thời gian cho các em để các em có thể tự học ở nhà. Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình của từng em và lấy số điện thoại của cả bố và mẹ các em để liên lạc, trao đổi khi cần thiết. 2. Phân loại, dạy học theo đối tượng học sinh Với sĩ số học sinh đông và chất lượng không đồng đều nên việc phân loại đối tượng học sinh là điều rất quan trọng. Theo đó ngay từ đầu năm học sau khi khảo chất lượng học sinh, tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh theo lực học. Với nhóm học sinh có lực học yếu nhất được tôi bố trí vào nhóm riêng ngồi sát bàn giáo viên để tiện cho việc theo dõi, giúp đỡ. Đồng thời cử nhóm trưởng có khả năng điều hành để có thể hướng dẫn các bạn tự học. Cùng với việc xếp chỗ ngồi thì với mỗi bài học tôi đều lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Giao nhiệm vụ phù hợp với các nhóm, những nhóm giỏi sau khi hoàn thành hoạt động trong sách, tôi thường ra thêm câu hỏi phụ để kích thích học sinh làm việc, suy nghĩ tìm tòi, tránh sự nhàm chán. Riêng với nhóm yếu, tôi không yêu cầu các em phải hoàn thành tất cả các hoạt động trong sách, mà chỉ yêu cầu các em hoàn thành những bài tập cơ bản và nắm chắc cách thực hiện. 3. Tổ chức bầu và rèn kĩ năng tự quản cho Hội đồng tự quản lớp học Để học sinh tự bầu Hội đồng tự quản, là những em nhận được sự tín nhiệm của học sinh trong lớp. Chỉ khi các em được bình bầu thì các em mới tin tưởng và nghe theo sự điều hành của nhóm trưởng và các thành viên trong Hội đồng. Sau khi Hội đồng tự quản được thành lập, tôi đã tiến hành rèn kĩ năng điều hành cho các thành viên, đặc biệt là các nhóm trưởng để các em có thể hỗ trợ, giúp đỡ giáo viên nhắc nhở các bạn trong nhóm tự học và hoàn thành nhiệm vụ học tập, bởi không phải học sinh nào cũng có năng tự học, nhất là những học sinh trung bình yếu. 6 Sau 2 tháng, nếu bạn yếu hơn trong nhóm có tiến bộ sẽ chuyển sang làm nhóm trưởng nhóm mới. Vì các em trong độ tuổi rất muốn tự khẳng định mình, luôn muốn được khen, các em rất thích làm thầy giáo, cô giáo. Vì vậy dù chỉ hướng dẫn cho bạn một điều nhỏ cũng làm các em rất vui. Mà để hướng dẫn buộc các em phải cố gắng học tập. Với em còn lại trong nhóm luôn muốn chuyển sang làm nhóm trưởng nhóm mới nên cũng phải nỗ lực học tập. Từ đó kích thích hứng thú say mê học tập ở học sinh. 4. Tổ chức phong trào thi đua học tập trong lớp - Học sinh tiểu học với tâm lí thích thi đua, thích được khen thưởng nên để phát triển niềm say mê hứng thú học tập thì giáo viên nên tạo phong trào thi đua học tập trong lớp như thi đua giữa các nhóm, giữa các bạn học sinh. - Khi tổ chức thi đua giữa các nhóm, nếu thuận tiện giáo viên có thể tiến hành thường xuyên trong các tiết học. - Trong mỗi tiết học, mỗi hoạt động, tôi đều tạo không khí thi đua giữa các nhóm. Tôi sử dụng bảng thi đua và những bông hoa với màu sắc, mức độ khác nhau để phân loại tạo sự hăng hái cho học sinh. Cuối mỗi tuần, trong giờ sinh hoạt lớp tôi sẽ tổng hợp số hoa tương ứng với số điểm mỗi nhóm nhận được trong tuần và ghi vào sổ tho dõi, rồi từ đó lấy cơ sở đánh giá cuối học kì. Qua quá trình thực hiện, tôi nhận thấy học sinh hăng hái và tích cực học cũng như có sự chuẩn bị bài ở nhà rất tốt. 5. Động viên, khích lệ học sinh kịp thời. Với tâm lí thích được khen, trong quá trình dạy học, tôi luôn cố gắng tìm ra những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để kịp thời động viên khích lệ các em, tạo cho các em sự tự tin từ đó có hứng thú hơn trong học tập. Những học sinh có tính tự học tốt và có kết quả cao trong học tập, tôi sử dụng phương pháp nêu gương để những học sinh khác thấy được lợi ích của việc tự học, từ đó noi theo và tập thói quen tự học cho mình. 6. Tổ chức đôi bạn cùng tiến - “ Học thầy không tày học bạn” câu tục ngữ này cho thấy bạn bè có vai trò rất quan trọng. Sau khi nắm lực học của từng học sinh, tôi tiến hành phân chia đôi bạn cùng tiến. 7 - Lớp có 8 nhóm mỗi nhóm có 4 bạn và 1 nhóm có 5 bạn. Đa phần tôi phân chia trong nhóm 1 bạn giỏi ngồi cùng với 1 bạn yếu để giúp đỡ nhau trong học tập. Ngoài ra tôi còn bố trí đôi bạn cũng tiến là những bạn cùng thôn, gần nhà nhau để tiện hỗ trợ giúp đỡ nhau ở nhà. Nhóm nào có sự tiến bộ sẽ được tuyên dương và tính vào điểm thi đua của nhóm. 7. Trao đổi với phụ huynh học sinh - Để quát triệt được học sinh có ý thức tự học ở nhà tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh qua điện thoại hoặc gặp trực tiếp giúp các em được quan tâm hơn khi tự học ở nhà. Sự quan tâm nhắc nhở của các bậc phụ huynh là nguồn động lực lớn thúc đẩy học sinh chăm học hơn. 8. Giáo viên chuẩn bị kĩ bài trước khi lên lớp - Tạo sự say mê học tập ở các em bằng chính các tiết học hấp dẫn, lôi cuốn. Muốn tiết học thực sự thu hút, hấp dẫn học sinh đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết và năng lực chuyên môn nhất định. Để đạt được điều đó, phần chuẩn bị của giáo viên trước khi lên lớp là hết sức quan trọng. Giáo viên chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học, chọn lọc những phương pháp phù hợp nội dung bài dạy là việc làm không thể thiếu để có tiết dạy đạt chất lượng. - Một điều hết sức quan trọng là giáo viên phải tạo được sự hấp dẫn ở chính nội dung giảng dạy. Vì cái mới mẻ, cái kì lạ bao giờ cũng gây hứng thú cao độ và nó kích thích trí tưởng tượng của học sinh, thúc đẩy trí óc các em muốn tìm tòi khám phá, phát hiện ra những điều lí thú đối với bản thân. - Tài liệu học tập theo mô hình VNEN có kênh hình phong phú kích thích các em phám phá, tìm tòi. Trong tài liệu có cố gắng cung cấp kiến thức mới cho học sinh nhưng chưa thể đáp ứng được hết nhu cầu tiếp cận cái mới của các em. Do đó, trong mỗi bài học giáo viên cần tìm tòi các kiến thức mới gây hứng thú nhận thức cho các em. - Với phương pháp lôi cuốn, nội dung hấp dẫn thì các em sẽ bị lôi cuốn vào từng tiết học, sẽ không ngừng tìm tòi, liên hệ thực tế, tự đặt ra các câu hỏi và tìm cách để giải đáp thắc mắc. Thế là giáo viên đã dẫn vào con đường tự học. 8 9. Hướng dẫn học sinh cách tự học Nhiều học sinh có ý thức học rất tốt, có mọi điều kiện tốt nhưng các em không thể tự học được là vì các em không có cách học. Để giúp cho học sinh có cách học giáo viên cần: - Trong các tiết học ở mỗi nội dung học ngoài dạng kiến thức kĩ năng, giáo viên cần hướng dẫn cho các em cách tư duy. - Để phát triển khả năng tư duy cho học sinh tôi thực hiện tiến trình dạy hoc như sau: Bước 1. Tình huống xuất phát/câu hỏi nêu vấn đề Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp không nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể). Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho các em trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện thành công. Bước 2. Giúp học sinh bộc lộ ý tưởng ban đầu Hình thành ý tưởng ban đầu của học sinh là bước quan trọng của quá trình dạy học theo hướng phát triển năng lực. Bước này khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức. Để hình thành ý tưởng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu học sinh trình bày ý tưởng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu nhiều hình thức biểu hiện của học sinh, có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. 9 Bước 3. Đề xuất phương án thực hành/ giải quyết vấn đề Từ những khác biệt và phong phú về ý tưởng ban đầu của học sinh, giáo viên giúp các em đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học. Ở bước này, giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số ý tưởng ban đầu khác biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải chọn lựa các ý tưởng ban đầu tiêu biểu của học sinh một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học sinh nhằm giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Bước 4. Tiến hành giải quyết vấn đề Từ các phương án thực hành/ giải quyết vấn đề mà học sinh nêu ra, giáo viên khéo léo nhận xét và gợi ý để học sinh lựa chọn phương án tiến hành. Ưu tiên thực hiện các phương án thực hành trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành trên vật thật có thể sử dụng mô hình, hoặc cho học sinh quan sát tranh vẽ. Khi học sinh thực hành, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng em/ nhóm. Nếu thấy học sinh hoặc nhóm nào làm sai yêu cầu thì giáo viên chỉ nhắc nhở riêng, không nên thông báo chung cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc của các học sinh/ nhóm khác. Bước 5. Kết luận, hợp thức hóa kiến thức Sau khi thực hiện hoạt động thực hành giải quyết vấn đề, các câu hỏi dần dần được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, giáo viên nên yêu cầu một vài ý kiến của học sinh cho kết luận sau khi thực hiện giải quyết vấn đề (rút ra kiến thức của bài học). - Trong quá trình tự học khi gặp một bài tập khó học sinh rất dễ nản, lười suy nghĩ giáo viên cần giúp học sinh nắm các bước khi giải một bài toán như sau: + Đọc kĩ đề toán + Xác định yêu cầu đề. 10 + Tóm tắt. + Phân tích để tìm cách giải. + Giải toán. - Khi học sinh tự học ở nhà, giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể vừa sức với học sinh, hướng dẫn cách học bài, làm bài - Cách học bài: Trước khi học bài cần nhớ lại bài cô giảng trên lớp. Tập trung suy nghĩ để hiểu kĩ, nhớ lâu rồi làm các bài tập liên quan (nếu có) - Cách làm bài: + Xem lại bài học trong sách trước khi làm bài tập. + Đọc kĩ bài tập, làm nháp, thử lại rồi mới làm vào tập. Phần ba: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM I. Kết quả đạt được 1. Trước khi áp dụng sáng kiến Bảng 1: Mức độ tự giác trong học tập môn toán của học sinh HS tự giác cao HS biết tự giác HS chưa tự giác TS HS Tổng số Tỉ lệ Tổng số Tỉ lệ Tổng số Tỉ lệ 37 9 24,32% 13 33,33% 15 42,35% Ngoài việc khảo sát mức độ tự học của học sinh, đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học môn toán của học sinh. Bảng 2: Chất lượng học tập môn toán của học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu TS HS T.số Tỉ lệ T. số Tỉ lệ T.số Tỉ lệ T.số Tỉ lệ 37 2 5,41% 5 13,51% 11 29,73% 19 51,35% 2. Sau khi áp dụng sáng kiến Sau khi áp dụng sáng kiến tôi đã tiến hành khảo sát lại và thu được kết quả như sau: 11 Bảng 3: Mức độ tự giác trong học tập môn toán của học sinh HS tự giác cao HS biết tự giác HS chưa tự giác TS HS Tổng số Tỉ lệ Tổng số Tỉ lệ Tổng số Tỉ lệ 37 16 43,24% 19 51,35% 2 5,41% Mức độ tự giác, tự học của học sinh được nâng lên rõ rệt kéo theo đó là sự nâng lên của chất lượng môn toán. Tôi đã tiến hành khảo sát vào giữa học kì II và thu được kết quả như sau: Bảng 4: Chất lượng học tập môn toán của học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu TS HS T.số Tỉ lệ T. số Tỉ lệ T.số Tỉ lệ T.số Tỉ lệ 37 12 32,43% 11 29,73% 11 29,73% 3 8,11% Với biểu hiện hàng ngày của các em trong quá trình học tập và kết quả thu được khi khảo sát mức độ tự học và chất lượng môn Toán của học sinh giữa học kì II, tôi cảm thấy khá hài lòng và phấn khởi. Tuy nhiên còn số ít em có kết quả chưa tốt do các em học còn yếu, tôi sẽ tiếp tục áp dụng bằng mọi biện pháp để đến cuối năm học các em có hứng thú hơn trong học tập và tự hoàn thành được các bài tập cơ bản. II. Bài học kinh nghiệm Trong phạm vi hẹp của sáng kiến này, tôi nhận thấy phương pháp tự học và hướng dẫn tự học cho học sinh có ý nghĩa to lớn trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Nó có tác dụng phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em. Nghề dạy học là nghề sáng tạo trong những nghề sáng tạo. Ngoài sáng tạo, tôi cũng phải rèn luyện tính kiên nhẫn, luôn tìm ra những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tại sao ta không biến những điều không thể thành có thể bằng những phương pháp dạy học tích cực? Tất cả những điều này nếu được đáp ứng, nó sẽ khơi dậy lòng ham học ở các em, tạo cho các em một sự hứng thú thi đua trong học tập, đêt các em được phát triển năng lực của mình và thấy rằng “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” 12 Qua đề tài này, tôi có dịp tìm hiểu kĩ hơn về phương pháp tự học và hướng dẫn tự học được áp dụng trong môn Toán. Thông qua đó, giúp tôi học tập và đúc kết một số kinh nghiệm qua việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Tôi hi vọng với một vài kinh nghiệm nhỏ trong phạm vi lớp học của mình chưa mang tính phổ biến rộng rãi nên chắc còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, bổ sung của các đồng nghiệp, chuyên môn nhà trường, hội đồng khoa học phòng giáo dục để sáng kiến của tôi được áp dụng trong thực tế phù hợp hơn, góp một phần nhỏ bé giúp học sinh được phát triển toàn diện hơn. Kbang, ngày 24 tháng 3 năm 2017 Người viết Nguyễn Thị Vân NHẬN XÉT VÀ XÁC NHẬN CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG Xã Đông, ngày ... tháng ... năm 2017 HIỆU TRƯỞNG NHẬN XÉT VÀ XÁC NHẬN CỦA CẤP TRÊN Kbang, ngày ... tháng .... năm 2017 THỦ TRƯỞNG
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_nang_luc_t.pdf