Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi
Mục đích đề tài:
- Giúp cho trẻ được tìm tòi khám phá môi trường xung quanh, khám phá thế giới đồ vật, tiếp cận với đồ vật, thao tác với đồ vật.
- Hoạt động vui chơi nhằm làm thỏa mãn nhu cầu vận động của trẻ.
- Hình thành cho trẻ các mối quan hệ gần gũi với bạn bè và cô giáo.
- Hình thành cho trẻ ý thức biết chia sẻ, nhường nhịn, trân trọng gìn giữ đồ dùng đồ chơi quanh trẻ.
- Giúp trẻ thể hiện thói quen biết sắp xếp đồ dùng ngăn nắp, gọn gàng sạch sẽ.
- Kích thích sự phát triển của trí tuệ, óc thẩm mỹ, khả năng sáng tạo của trẻ khi thực hiện hành động chơi.
- Hình thành nhân cách, chuẩn mực xã hội, tiếp thu kiến thức làm nền tảng để chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ vào học bậc học kế tiếp.
đề phương tiện và luật lệ giao thông vào giai đoạn nửa cuối của chủ đề. Ở bước thoả thuận chơi tôi cho trẻ làm tài xế lái xe ô tô và hát bài “Em tập lái ô tô” đi vòng quanh quan sát các góc. Khi trẻ quan sát qua các góc chơi, cô cho trẻ dừng lại để trẻ xuống các góc mà trẻ chọn. Như thế chỉ một trò chơi nhẹ nhàng, không gò bó trẻ, trẻ được chủ động nhận vai chơi,... Ví dụ : Ở chủ đề “Gia đình” thì trước tiên tôi ổn định lớp bằng bài hát “Cả nhà thương nhau" để tạo tình huống thu hút trẻ và ở giai đoạn đầu của chủ đề, tôi dẫn các cháu đi xem một số đồ chơi của cô và các bạn vừa làm, hỏi trẻ có nhận xét gì? Cô bố trí như vậy con thấy như thế nào? Con thích nhất góc chơi nào của lớp? Cho cháu vào góc chơi mà cháu thích. Nếu là giai đoạn giữa hoặc cuối chủ đề thì cô có thể nói: Hôm trước ở góc "Khoa học vui" các con chơi rất hay, hôm nay cô đã chuẩn bị thêm một số đồ dùng để các con chơi làm thí nghiệm mới, ai sẽ tham gia vào góc chơi này. Hoặc hôm nay góc tạo hình có một số đồ dùng mới các con có thể tham khảo và thử xem mình có khả năng sáng tạo đồ dùng trong gia đình. Và cứ như thế tôi khơi dậy ở trẻ tính tò mò, thích khám phá, đưa trẻ vào buổi chơi nhẹ nhàng như chơi một trò chơi. b. Hướng dẫn trẻ hoạt động: Muốn trẻ được chơi tích cực, chơi sáng tạo, nghĩ ra nhiều cách chơi trong các góc hoạt động ngay từ đầu tôi phải biết cách giới thiệu các góc chơi và quản lý tốt quá trình trẻ chơi trong các góc. Biện pháp này giúp trẻ chủ động tìm kiếm đồ chơi khi cần, triển khai trò chơi, thu dọn và cất đồ chơi đúng quy định. - Việc giới thiệu cho trẻ làm quen với các góc chơi tiến hành chủ yếu vào đầu năm học, khi trẻ còn bỡ ngỡ, chưa quen với đồ dùng đồ chơi quanh lớp, chưa biết tên đồ chơi, vị trí đồ chơi và các chỗ để chơi vì vậy tôi phải giúp trẻ biết ranh giới giữa các góc chơi. - Giới thiệu góc chơi nên tiến hành ngay đầu giờ chơi hoặc vào hoạt động sinh hoạt chiều. - Khi trẻ đã quen dần với các góc chơi và vị trí các đồ chơi thì cứ mỗi đầu chủ đề nên giới thiệu nội dung chơi của từng chủ đề (Từng nhánh chủ đề). - Khi trẻ chơi cô phải bao quát trẻ, động viên, hướng dẫn những trẻ còn nhút nhát. Cô có thể nhập vai chơi cùng trẻ để hướng dẫn trẻ chơi sáng tạo hơn. Ví dụ: Cô nhập vai vào người mua hàng: “Chào cô! Tôi muốn mua một đôi dép, dép bán bao nhiêu một đôi vậy cô? Bán cho tôi một đôi?. Cô trả tiền nói “Cám ơn” Trẻ thấy cô làm như vậy trẻ sẽ bắt chước cách mua hàng giống cô để giáo dục trẻ phải biết lễ phép, phải biết cách xưng hô. Cháu tham gia một số góc chơi: Cháu tham gia chơi góc bán hàng Cháu tham gia chơi góc bán hàng Cháu tham gia chơi góc tạo hình Cháu tham gia chơi góc âm nhạc Cháu tham gia chơi góc âm nhạc Cháu tham gia chơi góc đọc sách Trong giờ chơi luôn giáo dục trẻ chơi ngoan và biết cất dọn đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp sau khi chơi. - Ngoài giờ hoạt động góc phải nên cho trẻ hoạt động mọi lúc mọi nơi để trẻ khám phá hết những điều mới lạ xung quanh trẻ. - Phải làm kí hiệu ở các góc để cho trẻ chơi tất cả các góc. Kí hiệu của trẻ bằng số hoặc bằng chữ cái. Cô bao quát trẻ chơi và tạo một số tình huống nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Trẻ mẫu giáo lớn có khả năng tự tổ chức trò chơi (Với những chủ đề mà trẻ đã biết) cô giáo không cần tham gia trực tiếp vào quá trình chơi của trẻ mà trẻ là trung tâm của hoạt động, cô giáo là người tổ chức, tạo điều kiện gợi mở, dẫn dắt trẻ tích cực tự giác, chủ động sáng tạo trong hoạt động. Cô quan sát chung cả lớp, quan sát từng góc chơi để nắm được hứng thú chơi của trẻ ở từng nhóm chơi nhất là nhóm có bổ sung trò chơi mới. Nếu cô phát hiện ra những góc nào trẻ chơi chưa nhập vai hay cô bổ sung trò chơi mới mà trẻ mới được chơi cô phải có mặt kịp thời để hỗ trợ, tạo tình huống giúp trẻ chơi tốt. Nói chung, tuỳ thuộc vào diễn biến cụ thể mà cô giáo lựa chọn cách tác động cho phù hợp. Tuyệt đối không can thiệp vào trò chơi, bắt và đòi hỏi trẻ chơi theo ý của mình. Muốn phát huy vai trò to lớn của trò chơi qua hoạt động vui chơi tại các góc thì giáo viên vừa phải biết cách tổ chức, hướng dẫn vừa phải biết sử dụng các tình huống chơi để giáo dục trẻ, giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết, phát triển vào quá trình tâm lý, nhận thức trẻ. c. Nhận xét sau buổi chơi: Trước đây kết thúc buổi chơi tiến hành rập khuôn, máy móc, chưa linh hoạt. Hầu hết tất cả các buổi chơi hình thức tổ chức gần giống nhau, các trò chơi không thay đổi. Kết thúc tôi chủ yếu cho trẻ tham quan góc xây dựng mà không chú ý đến kết quả của công trình đó ra sao? Có thực sự tiêu biểu hay không? và tôi đóng vai trò là người trọng tài để đánh giá kết quả chơi của trẻ ở từng nhóm chơi, có khi chỉ trích làm mất hứng thú niềm tin của trẻ. Để phát huy tính tích cực, tạo hứng thú cho trẻ ở những lần chơi sau. Nhận xét cuối giờ chơi phải dựa vào kết quả chơi, ở từng nhóm chơi, từng cá nhân đối với từng buổi chơi để nhận xét. Tôi đi từng nhóm, quan sát kỹ quá trình chơi của từng cá nhân trẻ (Khen, khích lệ trẻ và điều chỉnh hành vi nếu trẻ chơi lệch lạc một cách kịp thời), gợi ý cho trẻ tự nhận xét về mình và nhận xét về bạn. Căn cứ vào việc thực hiện vai chơi mà trẻ nhận xét về mối quan hệ và sự phối hợp giữa các vai chơi. Chỉ cho trẻ tham quan kết quả chơi của một nhóm chơi nào đó khi nhóm đó có kết quả chơi nổi bật, có nhiều điểm mới. Ví dụ: Nhóm chơi ở góc chơi xây dựng với chủ đề “ Trường tiểu học”. Khi đã thực hiện xong công trình xây dựng của mình, tôi nhập cuộc gợi ý cho trẻ quan sát toàn bộ công trình giúp trẻ cảm nhận cái đẹp, đánh giá cái đẹp thông qua công trình xây dựng “Trường tiểu học”. Qua đó, cô có thể gợi ý cho trẻ bổ sung các chi tiết làm cho bố cục công trình hợp lý hơn. Đối với những buổi chơi mà kết quả các nhóm chơi không có gì nổi bật cô giáo nhận xét, động viên khích lệ tinh thần để lần sau cháu chơi tốt. Đối với trẻ yếu trong lớp tôi luôn dành cho trẻ một sự quan tâm đặc biệt nhằm khích lệ trẻ, giảm bớt sự tự ti, tạo cho trẻ niềm tin trẻ chơi tốt hơn và chờ đợi kết quả vào những buổi chơi sau. Ví dụ: Khi nhận xét đánh giá ở góc tạo hình có cháu Bảo không tạo ra được sản phẩm, sau khi cho trẻ nhận xét, tôi sẽ động viên cháu Bảo (Hôm nay cô thấy con đã có nhiều cố gắng, cô thấy con tham gia cùng các bạn trong nhóm dùng lá cây tạo ra các con vật nhưng con chưa hoàn thành, giờ chơi ngày mai con sẽ cố gắng hơn để hoàn thành sản phẩm như các bạn,...). Quả thực, hướng dẫn tổ chức cho trẻ hoạt động góc là một công việc vừa mang tính sư phạm vừa mang tính nghệ thuật, nó kết tinh của nhiều yếu tố. Sự nhận thức nghề nghiệp, sự nhạy cảm về thế giới nội tâm phong phú ngây thơ của trẻ nhỏ, sự khéo léo linh hoạt trong giao tiếp với trẻ nhỏ của mỗi giáo viên. 3.4. Huy động mọi nguồn lực để làm giàu nguồn học liệu, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động của trẻ. Đồ chơi là phương tiện cần thiết cho trẻ chơi, là người bạn đồng hành không thể thiếu trong trò chơi của trẻ. Đồ chơi giúp trẻ tạo ra hoàn cảnh chơi, đưa trẻ đến thế giới phong phú do trẻ tưởng tượng ra, là động cơ thúc giục, vẫy gọi trẻ vào cuộc chơi và là thế giới giúp trẻ làm quen với xã hội người lớn. Trong đồ chơi thể hiện tính chất điển hình, đồ chơi giúp trẻ có thể tái tạo và thể hiện các trò chơi của trẻ. Nhận thức được điều đó tôi đã huy động mọi nguồn lực để làm phong phú đồ dùng đồ chơi, học liệu, nguyên vật liệu cho trẻ hoạt động. a. Thu gom, sử lý nguồn nguyên vật liệu, tạo đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu mở mọi lúc, mọi nơi. * Thu gom nguồn nguyên vật liệu: Như chúng ta đã biết tính sáng tạo của trẻ cần được kích thích và nó có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Nếu trẻ được phép tò mò, được kích thích sáng tạo, không bị xét nét, được thực hành trải nghiệm với khả năng sáng tạo của mình thì sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những khả năng đặc biệt, có nhiều cơ hội để học hỏi khám phá những điều mới lạ, được rèn luyện để trẻ ngày càng mạnh dạn tự tin hơn. Để giải quyết vấn đề này thì nguyên vật liệu mở là rất quan trọng để giúp trẻ được thực hành trải nghiệm, được hoạt động tái tạo lại đồ dùng, nhu cầu sinh hoạt trong xã hội. Ví Dụ: Trẻ sử dụng chai nước ngọt để làm cây xanh, bông hoa. Chai nước mắm Nam Ngư để làm đoàn tàu. Cuộn chỉ hết để làm thân cây. Hay len, vải vụn, xốp để làm rối, búp bê,... Chính vì thế tôi đã lên kế hoạch tạo nguồn nguyên vật liêu mở cho lớp của mình. Hàng ngày, khi đi làm hoặc đi chơi thấy những thứ người ta vứt đi như chai dầu, vỏ sữa, que kem, vỏ sò, vỏ ốc, bẹ dừa, vỏ dừa, hạt nãng cầu, hạt bưởi, ống chỉ,... Tôi đều khéo léo thu gom rửa lại bằng xà phòng, phơi khô để những lúc rảnh rỗi làm đồ dùng, đồ chơi cùng trẻ. Vận động phụ huynh thu gom và hỗ trợ nguyên vật liệu: Thông qua các buổi họp phụ huynh, qua giờ đón trẻ, trả trẻ vận động phụ huynh thu gom nguyên vật liệu để làm đồ dùng đồ chơi. Muốn phụ huynh phối hợp cùng cô, tôi vận động phụ huynh tham gia làm đồ chơi cùng tôi và trẻ, tổ chức hoạt động vui chơi mời phụ huynh tham dự để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của hoạt động vui chơi. Từ đó phụ huynh phối hợp cùng giáo viên thu gom phế liệu nhiệt tình hơn. Để chuẩn bị thực hiện một chủ đề mới tôi đều ghi nội dung của chủ đề và các công việc cần sự giúp đỡ của phụ huynh lên bảng qua đó để phụ huynh biết và phối hợp cùng giáo viên trong việc sưu tầm nguyên vật liệu. Nói chung, cô giáo phải vận dụng sự khéo léo, tinh tế của mình phối kết hợp với phụ huynh thì việc chia sẽ, hỗ trợ về tinh thần và vật chất của các bậc phụ huynh sẽ nhiệt tình hơn. Nguồn nguyên vật liệu của lớp sẽ nhiều hơn, phong phú hơn. Hàng ngày tôi nhắc nhở trẻ thu gom những phế liệu, phế thải ở nhà như: Chai gội đầu, nước rửa chén, hộp sữa, vỏ chai nước mắm Nam Ngư,...hoặc khi ăn các loại hoa quả trẻ biết nhặt hạt, rửa sạch mang đến lớp đặt vào một nơi qui định. * Xử lý : Ở tuổi Mẫu giáo lớn trẻ đã có khả năng tự tổ chức trò chơi, tự tạo ra sản phẩm theo ý tưởng sáng tạo của trẻ bằng các nguyên vật. Vì thế, nguyên vật liệu chỉ cần vệ sinh sạch sẽ, xếp gọn gàng vào một nơi, khi trẻ hoạt động sẽ đến lấy (Tất cả những nguyên vật liệu phải được đảm bảo an toàn, không gây độc hại, không sắc nhọn, không nặng nề so với trẻ). Chính vì vậy khi thực hiện chủ đề nào tôi đều có đủ nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi phù hợp với chủ đề đó. Đồ dùng, đồ chơi của lớp chúng tôi ngày một phong phú đa dạng về chủng loại, mẫu mã đẹp mắt. Tạo cho trẻ niềm hứng thú, say mê, tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh qua đồ dùng, đồ chơi. Từ đó chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng của hoạt động vui chơi nói riêng được nâng cao rõ rệt. b. Hướng cho trẻ tham gia vào làm đồ dùng đồ chơi và tạo góc cho trẻ làm đồ dùng đồ chơi cùng cô. Ngoài những đồ dùng chơi mà nhà trường và phụ huynh trang bị, tôi đã sưu tầm thêm một số đồ chơi đẹp. Cho trẻ xem, trò chuyện cùng trẻ về nguyên vật liệu và cách làm đồ chơi đó. Gợi ý cho trẻ nêu ý tưởng của trẻ, cùng bàn bạc với trẻ cách làm đồ chơi đó, tôi cùng trẻ tạo ra nhiều đồ chơi lạ phục vụ cho hoạt động chơi của trẻ. Biện pháp này ngoài việc tạo thêm đồ dùng đồ chơi trong lớp còn giúp trẻ phát triển tính sáng tạo, sự khéo léo của đôi bàn tay và giúp cho trẻ thích thú hơn khi cùng nhau sử dụng đồ dùng đồ chơi của mình và bạn làm ra. Từ đó trẻ hứng thú hơn, tức là trẻ tích cực hơn trong lúc chơi trẻ tự giải quyết các vấn đề chơi của nhóm mình, biết tạo ra các sản phẩm mà trẻ đã trải nghiệm. Đặc biệt trẻ biết trân trọng và gìn giữ những sản phẫm trẻ tạo ra. 4. Kết quả đạt được: Việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nhằm giúp trẻ được khám phá thế giới xung quanh, góp phần hình thành ở trẻ khả năng nhận thức, tình cảm. Giúp trẻ phát triển thể lực, kỹ năng để làm nền tảng cho việc học tập sau này. Từ khi đưa một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực trong hoạt động vui chơi tôi nhận thấy các cháu có nhiều chuyển biến rõ rệt như: - Trẻ mạnh dạn tham gia khám phá thế giới xung quanh, tiếp cận và khám phá thế giới đồ vật, hoạt động tích cực với đồ vật. - Thể hiện được mối quan hệ gần gũi, quan tâm sâu sắc với bạn bè, cô giáo, với mọi người xung quanh. - Sử dụng đồ dùng đồ chơi linh hoạt và khéo léo hơn. - Có nhiều sáng tạo hơn, biết tạo ra nhiều sản phẩm có nhiều mẫu mã đẹp, hấp dẫn. - Có ý thức biết nhường nhịn, chia sẻ công việc cho nhau, trân trọng gìn giữ đồ dùng đồ chơi quanh trẻ. - Biết giúp cô thu dọn và sắp xếp đồ dùng ngăn nắp, gọn gàng sạch sẽ. - Môi trường trong và ngoài lớp sạch sẽ, luôn thay đổi mới lạ và đẹp mắt do trẻ tham gia làm đồ dùng đồ chơi cùng cô trang trí. III. KẾT LUẬN 1. Tóm lược giải pháp: Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo (Đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi). Nếu hoạt động vui chơi được tổ chức tốt thì kết quả học tập của các cháu rất cao. Bởi vì khi vui chơi trẻ tiếp thu những kiến thức, kỹ năng rất tốt. Tất cả các hoạt động vui chơi mà trẻ tham dự đều xây dựng cho trẻ khả năng nhận thức, tình cảm, giúp trẻ phát triển thể lực, kỹ năng để làm nền tảng cho việc học tập sau này. Vì vậy muốn phát huy tính tích cực của trẻ thông qua hoạt động vui chơi giáo viên cần chú ý một số vấn đề sau: - Giáo viên cần vận dụng sự sáng tạo, khéo léo của mình, phải tạo cho trẻ môi trường hoạt động thật đẹp mắt nhằm thu hút sự tập trung chú ý của trẻ, lôi cuốn trẻ vào cuộc để chơi. - Đồ dùng đồ chơi rất là quan trọng trong các góc chơi, nếu các góc chơi nghèo nàn, không có nhiều đồ dùng đồ chơi đẹp thì trẻ sẽ nhàm chán, không phát huy được khả năng của trẻ trong quá trình chơi. Do vậy giáo viên phải tạo ra nhiều đồ dùng đồ chơi đẹp, mới lạ hấp dẫn để kích thích trẻ chơi và thể hiện hết khả năng sáng tạo của mình trong quá trình chơi. - Tham khảo tài liệu tìm ra nhiều trò chơi mới lạ hấp dẫn, phối hợp nhiều trò chơi trong một giờ hoạt động vui chơi thì trẻ sẽ thích thú hơn. - Giáo viên phải nắm vững phương pháp sử dụng linh hoạt các thủ thuật, nghệ thuật trong quá trình tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ. - Vận động nhiều nguồn lực để làm giàu nguồn học liệu, đồ chơi, nguyên vật liệu mở cho trẻ hoạt động. - Tổ chức, hướng dẫn trẻ vui chơi thường xuyên, không áp đặt trẻ. Không can thiệp vào trò chơi của trẻ, luôn là người giám sát, phát triển tính tự lực, tự giác của trẻ. - Giáo viên cần động viên, khuyến khích kịp thời đối với những trẻ có sự sáng tạo và kích thích, khơi gợi để trẻ thể hiện hết khả năng của mình trong khi chơi. - Thường xuyên thay đổi các góc chơi của lớp và bố trí các góc chơi hợp lí theo từng chủ đề, tạo cảm giác mới lạ, thu hút sự tập trung của trẻ. - Giáo viên phải hòa nhập vào thế giới trẻ thơ để tham gia vui chơi cùng trẻ. - Tiếp thu ý kiến đóng góp của lãnh đạo để rút kinh nghiệm cho bản thân. 2. Kết luận: Trên đây là một số biện pháp rút ra từ nhiều năm giảng dạy, cùng với sự nhiệt tình, chịu khó học tập từ các bạn đồng nghiệp. Để có được kết quả khả quan ở trẻ, khi tổ chức tốt vấn đề “Phát huy tính tích cực của trẻ qua hoạt động vui chơi” là nhờ sự quan tâm sâu sắc của Ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ tận tình của các bạn đồng nghiệp, sự nhiệt tình hỗ trợ của các bậc phụ huynh học sinh. Đặc biệt là sự năng nổ của bản thân đã không ngừng tìm tòi những cái hay, cái mới lạ, áp dụng nhiều biện pháp tối ưu vào trong hoạt động chơi của trẻ. Bản thân tôi sẽ cố gắng trao dồi chuyên môn, luôn không ngừng học hỏi kinh nghiệm để có những phương pháp tổ chức hoạt động ngày càng tốt hơn. 3. Phạm vi đối tượng áp dụng: Đề tài này áp dụng cho tất cả giáo viên trong Tỉnh trong việc phát huy tính tích cực của trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi. Tùy tình hình thực tế của trường mà giáo viên đưa ra các biện pháp cho phù hợp thì sẽ đạt được kết quả tốt. HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG I. Qui định về hình thức: - Viết trên mặt khổ giấy 21x33, đánh máy hoặc viết tay. Nếu thiếu giấy ( Trong mẫu) thì gắn thêm giấy vào phần cần viết thêm. - Phải ghi đầy đủ tên đề tài, họ tên, đơn vị, tháng năm hoàn thành vào đúng chỗ qui định. II. Trình tự của bài viết: 1.Theo trình tự gợi ý ở trang 3, có thể thêm các phần khác nhưng không được thiếu các phần trong trình tự đã nêu. 2. Lưu ý các mục như sau: Mục I: Mục 1.1: Nêu lý do chọn đề tài: Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn Mục 1.2: Nêu rõ mục đích chọn đề tài nhằm giải quyết vần đề gì. Mục 1.3: Lịch sử đề tài: nêu rõ quá trình hình thành đề tài: Đề tài mới hay áp dụng đề tài đã có. Mục 1.4: Nêu khái quát kinh nghiệm, SKKN đã làm: Từ lúc nào? Ở đâu? Đối tượng nào? Mục II: 1. Miêu tả, thống kê số liệu của thực tế trước khi áp dụng kinh nghiệm, SKKN 2. Từ thực tế, rút ra điều gì phải làm (Cơ sở thực tế, cơ sở lý luận,) 3. Miêu tả tiến trình thực hiện, các giải pháp, kinh nghiệm, SKKN ( nêu rõ các phương pháp thực tiễn đề tài ) 4. Đánh giá kết quả đạt được: Thống kê số liệu cụ thể (nếu có). Các mặt diễn biến của đối tượng Mục III: 1. Tóm lược giải pháp, đút rút kinh nghiệm đã nêu (Rò ràng, dễ hiểu),...có thể nâng lên về mặt lý luận. 2. Giá trị của kinh nghiệm, SKKN: Áp dụng ở đâu? Đối tượng nào? 3. Nêu những kiến nghị là những yêu cầu tối thiểu để hỗ trợ cho việc thực hiện kinh nghiệm, SKKN đã nêu. III. Gợi ý cách chọn đế tài: 1. Loại đề tài mang tính chất chung: Giáo dục đạo đức HS; Giáo dục HS cá biệt; Rèn luyện HS yếu; bồi dưỡng HS giởi; Quản lý lao động các bộ, giáo viên, công nhân viên trường học; Tổ chức 1 lớp học, tồ chức học nhóm, học tổ; Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả; Quản lý việc dạy học đủ 9 môn học bắt buộc ở tiểu học có hiệu quả, 2. Loại đề tài mang tính chất phục vụ cho bộ môn: nâng cao chất lượng môn học vần lớp 1; Rèn luyện kỹ năng qua tiết luyện tập môn toán 5; Để giúp nhớ lâu công thức toán ở 6, 7,Kinh nghiệm hướng dẫn thành công tiết thực hành môn sinh vật; Rèn luyện chữ viết cho HS lớp 3; Làm thế nào để dạy tốt môn GDSK; Nâng cao chất lượng môn GD âm nhạc; Rèn kỹ năng tạo hình, 3. Loại đề tài sáng tạo đồ dùng dạy học các ngành học, cấp học. 4. Loại đề tài áp dụng SKKN của tác giả khác: Phải nêu lại SKKN đã có, sau đó trình bày quá trình thực hiện, phương pháp, giải pháp của cá nhân khi áp dụng SKKN đã có, kết quả đạt được. 5. Loại đề tài vận dụng SKKN của tác giả khác thì phải ghi rõ: Vận dụng SKKN của tác giả nào? Áp dụng vào đối tượng nào? 6. Đối với cá nhân, nếu có đề tài tăm đắc, kiên trì áp dụng thì cũng được quyền viết lại, trong đó: - Có giải pháp áp dụng trước đây (Kinh nghiệm, SKKN cũ) - Hiện tại điều chỉnh, bổ sung phần nào, giải pháp nào?... 7. Những SKKN của tập thể phải ghi rõ: Đồng tác giả và có bảng phân công cụ thể, kế hoạch thực hiện của từng tác giả. Đối với loại SKKN này, nội dung đề tại phải nhằm giải quyết những vấn đề lớn trong phạm vi rộng: Trường, Huyện, Tỉnh và phải được Hội đồng khoa học cấp ngành tỉnh duyệt đồng ý mới được phép thực hiện. IV. Tổ chức xem xét, đánh giá kinh nghiệm, SKKN: 1. SKKN được xem xét, đánh giá từ Hội đồng KHGD của trường, phòng GD & ĐT, sở GD & ĐT (Có biên bản chung và có lời nhận xét đánh giá trên từng SKKN ở trang 2) 2. Dựa vào hình thức và nội dung bài viết, các bài viết (kinh nghiệm, SKKN) được đánh giá, xếp loại như sau: Loại A: - Hình thức: Đảm bảo theo đúng mẫu qui định - Nội dung: Là những sáng kiến phải giải quyết được những vấn đề đúng đường lối, quan điểm giáo dục, đảm bảo tính khoa học, có những biện pháp cụ thể, thiết thực, sát đúng, có hiệu quả rõ rệt, có thể phổ biến cho ngành áp dụng rộng rãi trong tỉnh và có thể từ đó rút ra được một số vấn đề vầ lý luận giáo dục. Loại C: - Hình thức: Đảm bảo theo đúng mẫu qui định. - Nội dung: Là những sáng kiến bình thường, giải quyết được một số vấn đề cần thiết với những biện pháp cụ thể, đạt kết quả vừa phải, có thể phổ biến trong phạm vị trường học hoặc huyện, không phổ biến được trong tỉnh. Loại B: - Hình thức: Đảm bảo theo đúng mẫu qui định - Nội dung: Là những sáng kiến chưa đạt loại A, nhưng cao hơn loại C. Không xếp loại: Những sáng kiến không đạt yêu cầu - Sai quan điểm, đường lối, phương pháp giáo dục. - Sáng kiến kinh nghiệm không có hiệu quả. - Sáng kiến kinh nghiệm không có tính khả thi. - Loại bài viết không phải là SKKN. - Loại bài viết sao chép tài liệu đã có.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_huy_tinh_tich_cu.doc