Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Lớp 9 trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở

 Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực của cuộc sống .Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học kỹ thuật .Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành GD - ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối.

 Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới

 Như chúng ta đã biết, môn lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai.

 Nhưng những nhận thức quan niệm sai lệch về vị trí ,chức năng của khoa học lịch sử và môn lịch sử trong đời sống xã hội ,trong giáo dục đã dẫn tới phương pháp nghiên cứu, học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên nhiều mặt .Tình trạng học sinh không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, phổ thông, nhớ sai hoặc nhầm lẫn kiến thức là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều trường học nói chung và trường THCS nói riêng

 Vì vậy hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ 2 khoá 8 đã nhấn mạnh:

“ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD - ĐT khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học .Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy – học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học ,tự nghiên cứu cho học sinh ”

 Trong việc đổi mới,cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng.Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động .Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và hành động của bản thân ( tư duy và thực tiễn ).Vì vậy việc khơi dậy ,phát triển ý thức, ý chí, năng lực ,bồi dưỡng ,rèn luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục

 

doc9 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 8509 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Lớp 9 trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i mục đích ,yêu cầu, trình độ học tập. 
 Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn .Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải được “tích cực hoá’’trong quá trình dạy- học ,phải chủ động sáng tạo. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ , thụ động như : Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ , học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra . 
 II)Thực tiễn của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong trườngTHCS hiện nay :
 Trong vài năm gần đây , bộ môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước . Điều đó được thể hiện ở chỗ môn lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như Lí , Hoá được tổ chức thi tuyển học sinh giỏi các cấp được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc daỵ và học .
 Tuy nhiên qua hơn 10 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn lịch sử hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn , trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh tuy đã được phổ biến , học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đạt được không đáng là bao . Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn đối với học sinh lớp 9 khi ra trường là không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra.
 Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây : 
 _Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử cũng như Địa lí , Kĩ thuật , Thể dục , GDCD  đều là những môn phụ . Điều này được thể hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh đạo chưa đúng mức . Theo tìm hiểu của cá nhân tôi nhiều trường không có giáo viên chuyên sử mà giáo viên dạy Văn , Địa lí  có thể dạy sử do đó không đáp ứng yêu cầu của bộ môn đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. 
 _Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay . Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến . Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan một di tích lịch sử vì không có kinh phí . Điều đó làm cho vốn kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng . 
 _Thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh lớp 9 trong học tập bộ môn lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do chính những cơ chế , những quy định từ cấp trên . Trong những năm trở lại đây môn lịch sử được quan tâm nhiều hơn , đồ dùng , tài liệu học tập được cung cấp đầy đủ hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học môn lịch sử . 
 Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế , đó là chỉ chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành , không chú ý đến việc phát triển năng lực sáng tạo.
 Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên . Sự nguy hại của việc “thi gì học nấy” làm cho học vấn của học sinh bị què quặt , thiếu toàn diện. Tình trạng mù lịch sử hiện nay ở không ít học sinh là hậu quả tất yếu của việc học lệch , không toàn diện. Đó là chưa kể đến việc coi thi, chấm thi chưa nghiêm túc, đúng mực nhằm đảm bảo thành tích của nhà trường, của cá nhân làm cho kết quả học tập của học sinh không đúng thực chất.
 Chương 2:
Yêu cầu chung :
 - Phương pháp dạy học là một khoa học đồng thời cũng là một nghệ thuật Không có phương pháp nào là vạn năng có thể thay thế các phương pháp khác . Vì vậy phải biết kết hợp đồng thời các phương pháp với nhau. 
 - Bộ môn lịch sử ở trường THCS được giảng dạy với tư cách là môn khoa học mà đặc trưng cơ bản của nó là học sinh không trực tiếp quan sát. Sự kiện lịch sử là cơ sở của nhận thức lịch sử. Muốn học sinh nắm được những kiến thức phổ thông cơ bản của khoa học lịch sử thì trước hết phải cung cấp cho các em một hệ thống những sự kiện lịch sử cơ bản. Không khí lịch sử của giờ học phải được tạo ra bởi chính sự sống động của các sự kiện lịch sử . Sự kiện đó phải được học sinh thể hiện lại một cách sinh động, cụ thể, có hình ảnh. Chính vì vậy các biện pháp sư phạm được áp dụng trong giờ lịch sử trước hết phải khôi phục lại được bức tranh quá khứ , từ đó định hướng từng bước giúp các em từ sự kiện lịch sử mà khám phá bản chất sự kiện, hiện tượng hay quá trình lịch sử. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, giáo dục tư tưởng tình cảm, bồi dưỡng truyền thống dân tộc.
 - Cấu trúc của giờ học phải linh hoạt , mềm dẻo gây được hứng thú bất ngờ và hấp dẫn cho học sinh. Không nhất thiết cứ phải tiến hành giờ học theo trình tự các bước . 
 - Ví dụ : Không nhất thiết vào đầu giờ học là kiểm tra bài cũ , cuối giờ học là củng cố kiến thức bài học mà có thể kiểm tra bài cũ của học sinh ngay khi cung cấp kiến thức mới .
 Nếu vận dụng tốt cấu trúc của giờ học sẽ tránh được sự nhàm chán, công thức mà học sinh đã biết trước khi vào giờ học.
 - Phải xuất phát từ đối tượng cụ thể ở từng lớp học trong toàn khối lớp 9 để xem xét khả năng tự nhận thức của học sinh mà tìm biện pháp phát triển ở các em mặt nào đó của tư duy lịch sử. Tư duy bao giờ cũng xuất phát từ cái cụ thể. Tư duy lịch sử bao giờ cũng nhiều nội dung , nhiều cấp độ từ thấp đến cao , từ đơn giản đến phức tạp . Đó là tư duy tái tạo, trí tưởng tượng, khả năng phân tích, so sánh, tư duy tổng hợp, tư duy lô gíc
 Chính vì vậy, ngoài việc sử dụng các biện pháp dạy học, người giáo viên cần phải phân loại được các sự kiện, hiện tượng lịch sử, xem kiến thức đó phát triển tư duy nào cho học sinh.
PHầN THứ NHấT
Các biện pháp sư phạm để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong học tập môn lịch sử 
1-Sử dụng SGK nhằm phát triển tư duy cho học sinh .
 a- Sử dụng SGK để trình bày bài giảng :
 Sau khi soạn giáo án xong, cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong SGK, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiêu rõ nội dung tinh thần mà tác giả mong muốn ở học sinh về từng mặt giáo duc, giáo dưỡng, phát triển  sau đó đi sâu vào từng mục, tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan của kiến thức đó với kiến thức cơ bản của toàn bài . Mỗi bài có từ 2 đến 3 mục nhưng không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà phải xác định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm thì dành thời gian nhiều hơn .
Ví dụ : Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953- 1954) bài gồm có 4 mục thì mục II là mục quan trọng nhất, do đó phải đầu tư thời gian nhiều nhất. Trong bài dạy thường có các tranh ảnh , bản đồ  nếu không có bản đồ in sẵn thì ta phải phóng to bản đồ trong SGK để phục vụ bài dạy.
 Như vậy SGK là điểm tựa để người giáo viên xác định kiến thức cơ bản , xác định các khái niệm cần hình thành cho học sinh, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng , vừa phat huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh .
 b- Sử dụng SGK trong quá trình dạy học trên lớp :
 Trong giờ học, học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi đối chiếu, so sánh với SGK, thậm chí có những em không thích ghi theo bài giảng của giáo viên mà lại chép trong SGK . Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại ngôn ngữ trong SGK mà nên diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình . 
 Ví dụ : Khi dạy bài : Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946- 1954) khi dạy phần IV chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 giáo viên có thể vừa chỉ bản đồ vừa phân tích :
 -Sáng 7- 10 -1947 thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc cạn , Chợ Mới , Chợ đồn .
 - Một cánh quân bộ từ Lạng sơn lên Cao bằng rồi từ Cao bằng đánh xuống Bắc cạn tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc .
 - Ngày 9- 10- 1947 một binh đoàn hỗn hợp ngược sông Hồng , sông Lô , sông Gâm lên thị xã Tuyên quang , Chiêm hoá bao vây phía tây căn cứ địa Việt Bắc.
 Trong SGK ở phần lớn các bài đều có các đoạn chữ in nhỏ , in nghiêng . Kiến thức được thể hiện ở các đoạn này rất quan trọng – là nguồn tư liệu mới làm nổi bật nội dung cơ bản của bài . Chính vì vậy giáo viên phải sử dụng triệt để . Nếu nó đề cập những vấn đề khó , phức tạp thì giáo viên miêu tả hoặc kể chuyện , nếu dễ có thể gọi một em đọc to cho cả lớp nghe để các em cảm thụ về những sự kiện , hiện tượng lịch sử trong đoạn đó . 
 c- Hướng dẫn học sinh sử dụng SGK để học ở nhà 
Đối với học sinh lớp 9 thì khả năng tự học ở nhà một cách độc lập đã khá cao , giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể , vưà sức với các em . Nếu hoàn thành tốt thì đó chính là điều kiện để tư duy của các em phát triển 
 Ví dụ : Khi học bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời ‘’’ giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập để nêu rõ sự thành lập và hoạt động của ba tổ chức cách mạng bằng cách lập bảng so sánh :
Tên tổ chức 
Thời gian thành lập
Bộ phận lãnh đạo 
Thành phần tham gia
Chủ trương hoạt động
2- Sử dụng hệ thống các câu hỏi trong dạy học lịch sử lớp 9 để phát triển tư duy cho học sinh 
 Để sử dụng tốt hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần lưu ý mấy điểm sau : 
 _Câu hỏi phải vừa sức , đúng đối tượng , không quá khó hoặc quá dễ . 
 _Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 7 đến 12 câu hỏi . Sau mỗi chương có câu hỏi bài tập . 
 _Triệt để khai thác các câu hỏi trong SGK kết hợp với câu hỏi sáng tạo . 
 a,Nêu câu hỏi đầu giờ học :
 Đầu giờ học giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài cũ . Nhưng trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh , giáo viên có thể nêu ngay câu hỏi định hướng cho học sinh . Đây là loại câu hỏi có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy động kiến thức của từng bài . Tuy nhiên khi nêu câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên cung cấp cho các em đầy đủ sự kiện thì các em mới trả lời được .
 Ví dụ :Khi dạy bài : Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược” thì đầu giờ học giáo viên có thể đặt câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ : Tại sao lại khẳng định từ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đến chiến thắng Biên giới thu đông 1950 là một bước phát triển của cuộc kháng chiến ? Các em chú ý theo dõi bài giảng và SGK để trả lời . 
 b,Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện , hiện tượng lịch sử trong bài học . 
 Ví dụ trong bài “Tổng khởi nghỉa tháng Tám 1945’’ giáo viên đặt hai câu hỏi về điều kiện khách quan và chủ quan (thời cơ) của cách mạng tháng Tám để làm nổi bật nguyên nhân thắng lợi.
 Những kiến thức này được sắp xếp viết vào giấy trong cho vào máy chiếu để học sinh quan sát tìm ra mối liên hệ giữa chúng : 
Điều 
kiện 
chủ 
quan
1 - Pháp thua ở chính quốc rồi bị Nhật hất cẳng ở Đông dương.
 Điều
 Kiện 
 Khách 
 Quan
2 - Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ Tịch 
3 - Phát xít Nhật bị đồng minh đánh gục . 
 4 - Sự chuẩn bị kiên trì , chu đáo của ta về chính trị , vũ trang .
5- Khả năng tận dụng thời cơ “ngàn năm có một” của ta .
 Như vậy so sánh những kiến thức ở bảng trên thì học sinh sẽ phân biệt được đâu là điều kiện khách quan , đâu là điều kiện chủ quan . Điều đó giúp các em không những nắm về kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục , rèn luyện kĩ năng , kĩ xảo , phát triển tư duy .
 c- Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp 
 Câu hỏi phải được giáo viên chuẩn bị từ khi soạn giáo án , phải dự kiến nêu ra lúc nào ? Học sinh sẽ trả lời ra sao ? Đáp án trả lời thế nào ? Cần tránh câu hỏi mà các em chỉ cần trả lời một cách đơn giản là Có hay “Không’’ , “Đúng’’ hay “Sai’’, hoặc câu hỏi quá dễ làm học sinh thoả mãn đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình .
 Thông thường, căn cứ vào tính chất , đặc điểm của các kiến thức lịch sử mà có thể nêu các loại câu hỏi sau :
 _Câu hỏi về sự phát sinh của các sự kiện , hiện tượng lịch sử như nguyên nhân sâu xa , nguyên nhân trực tiếp hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện , hiện tượng đó . 
 _Câu hỏi về quá trình diễn biến , phát triển của sự kiện , hiện tượng lịch sử như diễn biến các cuộc khởi nghĩa , các cuộc cách mạng hoặc các cuộc cách mạng hoặc các cuộc chiến tranh . 
 _Câu hỏi nêu lên đặc trưng , bản chất của các hiện tượng lịch sử bao gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy . 
Ví dụ : Em hãy đánh giá vai trò của Nguyễn ái Quốc đối với sự thành lập Đảng cộng sản Việt nam . 
 _Câu hỏi tìm hiểu kết quả , nguyên nhân thắng lợi (thất bại) và ý nghĩa lịch sử các sự kiện hiện tượng lịch sử . 
 _Câu hỏi đối chiếu , so sánh giữa các sự kiện , hiện tượng lịch sử cùng loại với nhau . 
 Ví dụ : Khi dạy bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời ‘’’ có thể cho học sinh so sánh ba tổ chức cách mạng về tổ chức , hoạt động  
 Một điều cần lưu ý là phải động viên , khuyến khích học sinh tham gia trả lời câu hỏi dưới nhiều hình thức như khen ngợi , đánh giá , cho điểm  
 Phần thứ hai
1,Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử lớp 9 để phát huy tính tích cực của học sinh 
 Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan , sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau : tai nghe , mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dẽ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu . 
 Đồ dùng trực quan có nhiều loại . Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng . Sau đây là một số cách sử dụng cơ bản : 
 a,Phương pháp sử dụng hình vẽ , tranh ảnh trong sách giáo khoa . 
 Hình vẽ tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học . Từ việc quan sát , học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng . Thông qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt , lựa chọn ngôn ngữ . Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử , giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học , có xem xét , phân tích , giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử . 
 Ví dụ : Khi dạy bài “Hoạt động của Nguyễn ái Quốc ở nước ngoài (1919- 1925)’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đang phát biểu ý kiến tại đại hội Tua (12- 1920). Sau khi tường thuật giáo viên cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin để truyền bá vào Việt Nam từ đó có tình cảm tự hào về con người Nguyễn ái Quốc. 
 Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng , vừa phát huy được năng lực tư duy cho học sinh , kích thích trí tưởng tượng phong phú , tạo hứng thú học tập cho các em .
 b,Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong SGK 
 Học sinh lớp 9 bậc THCS cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh , chân dung các nhà cách mạng , các anh hùng dân tộc , các vị lãnh tụ , các nhà phát minh khoa học , các nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật. Các em không chỉ chú ý miêu tả bề ngoài mà còn chú ý phân tích nội dung, tính cách , hành vi thể hiện ở tranh ảnh . 
 Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học sinh , kích thích óc tò mò , phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em khâm phục , học tập được đạo đức, tài năng của họ .
 Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật lịch sử ra . Khi sử dụng , giáo viên phải phân tích ,định hướng cho học sinh , tự mình đánh giá vai trò, tính cách của nhân vật . 
 Ví dụ: Khi dạy bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời” khi dạy đến mục “Luận cương chính trị 10 – 1930’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần Phú . Sau đó cho học sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này, giáo viên kể cho các em nghe về tiểu sử , quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú – Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta .
 c,Sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử 
Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học lịch sử . Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian , thời gian , địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định 
 Ví dụ : Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là “một pháo đài bất khả xâm phạm’’ , “một cối xay thịt Việt minh”. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông dương 1953-1954 , bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này: Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc , hiểm trở , là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc bộ .
Thông qua quan sát bản đồ , đọc kí hiệu , nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ , việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát , trí tưởng tượng , tư duy và ngôn ngữ , đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ , củng cố thêm kiến thức về Địa lí . 
 Chú ý : Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi trên bản đồ , đồng thời tập cho các em quan sát , đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử được thể hiện trên bản đồ . 
d,Sử dụng máy chiếu trong dạy học lịch sử 
 Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử . Một số tranh ảnh , phần bài học quan trọng giao viên có thể pho to hoặc viết vào giấy trong sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn , nhớ lâu hơn khi được học trên máy chiếu . 
Ví dụ : Khi dạy bài Nhật bản tôi đã pho to màu một số hình ảnh trong bài như :tàu chạy trên đệm từ , trồng trọt theo phương pháp mới  và khi dạy đến phần khoa học kĩ thuật đã minh hoạ bằng những hình ảnh này trên máy chiếu, học sinh đã rất thích thú phấn khởi ,ngạc nhiên 
 e- Sử dụng giáo án điện tử 
 Đây là một phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay , việc sử dụng các thiết bị dạy học này cũng không phải là điều dễ dàng, bản thân cũng chưa từng dạy mà mới chỉ được xem qua tư liệu thì cảm thấy rất thích , học sinh thì đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hiệu quả thu được rất cao. Song để dạy được một giờ như vậy phải có sự chuẩn bị rất công phu, phải biết sử dụng các phương tiện hiện đại . Bản thân trong thời gian tới sẽ cố gắng để dạy theo phương pháp này . 
III) kết luận:
 Như vậy việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình , trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống . Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học vào từng bài phải có sự nhận xét , đánh giá , rút kinh nghiệm và trao đổi , phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn . Cần tránh khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”
 Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt điều này , đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn , nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao , phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn . Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà: có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng tạo đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
 Trên đây là một số ý kiến của bản thân trong quá trình giảng dạy đã tích luỹ và tham khảo thêm từ đồng nghiệp và một số tư liệu khác, có gì sai sót mong được sự góp ý của đồng nghiệp và mọi người. 
, ngày 10 tháng 5 năm 2009 
 Người viết

File đính kèm:

  • docSang_kien_kinh_nghiem.doc
Sáng Kiến Liên Quan