Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của Giáo dục- Đào tạo trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là:

 Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho tất cả các cấp học, bậc học.

 Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy học.Tổ chức, quản lý tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng nhà nước.

 Để thực hiện thành công Nghị Quyết Đảng các cấp và cuộc vận động lớn của ngành, quản lý cũng như toàn thể cán bộ, giáo viên là người đi đầu trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Đánh giá đúng thực chất chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Việc đánh giá trung thực chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ giúp chúng ta nhìn thẳng vào sự thật, có cơ sở khoa học để từ đó tuyên truyền, vận động, phối hợp với phụ huynh nâng cao chất lượng cuộc sống giúp trẻ phát triển cân đối, hài hoà cả thể chất lẫn tinh thần, thông minh, nhanh nhẹn.

 Trong trường mầm non người quản lý về mảng chăm sóc nuôi dưỡng có vai trò vị trí hết sức quan trọng: là người chịu trách nhiệm chính về toàn bộ việc chăm sóc nuôi dưỡng trong nhà trường; thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý về số lượng, chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, chỉ đạo giáo viên nhân viên thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo mục tiêu đào tạo.

 Việc đưa các nội dung chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ vào chương trình chăm sóc giáo dục cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo là một việc cần thiết, tạo ra sự liên thông về giáo dục dinh dưỡng cho trẻ từ độ tuổi mẫu giáo đến tuổi học đường. Mặt khác trẻ mầm non rất nhạy cảm và mau chóng tiếp thu những kiến thức học ở trường và hình thành dấu ấn lâu dài. Việc tiến hành giáo dục dinh dưỡng-sức khoẻ và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non sẽ góp phần quan trọng trong chiến lược con người tạo ra một lớp người mới có sự hiểu biết đầy đủ về vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ, trẻ biết cách vệ sinh trước ,trong và sau khi ăn. Biết lựa chọn ăn uống một cách hợp lí. Thông minh tự giác để đảm bảo sức khoẻ cho mình.

 Như vậy hiểu biết đúng đắn về vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm không chỉ cần thiết cho sự tăng trưởng, phát triển thể lực của từng người mà còn cần thiết đối với sự phát triển của toàn xã hội.

 

doc23 trang | Chia sẻ: haitina33 | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến món ăn cho trẻ. Và nếu có xảy ra nhứng trường hợp đáng tiếc thì bên cung ứng sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm. 
 Do vậy để làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, chúng tôi đã chọn những cơ sở tin cậy để tiến hành ký hợp đồng mua thực phẩm, các cơ sở hợp đồng phải đáp ứng yêu cầu vệ sinh, đã được y tế Quận kiểm duyệt. Hợp đồng nêu rõ yêu cầu về chất lượng vệ sinh thực phẩm, giá cả, thời gian giao nhận và điều khoản thi hành có xác nhận của hai bên. Trong một loạt các danh sách công ty được phép cung ứng thực phẩm cho trường mầm non, chúng tôi đã xem xét nghiên cứu và lựa chọn những công ty uy tín, chất lượng, đã làm được lâu năm.
 Trước khi ký kết hợp đồng, tôi, đồng chí hiệu trưởng và bếp trưởng đã nhiều lần đi khảo sát tình hình thực tế tại cơ sở cung cấp thực phẩm. Như xuống tận vườn rau tại Vân Nội Đông Anh xem quy trình sản xuất rau, củ an toàn, cách họ thu hoạch đóng gói để nhà cung cấp mang đi tiêu thụ. Đến tận cơ sở 12A, Quỳnh Mai, Hai Bà Trưng Hà Nội bên công ty thực phẩm Minh Thoa để khảo sát quá trình nhận hàng, đóng hàng, phân phối các sản phẩm tôm, thịt, cá tới các cơ sở.
Thăm vườn rau tại xã Vân Nội, Đông Anh, Hà Nội
 Với cơ sở cung cấp sữa chua, chúng tôi chọn công ty thương mại và dịch vụ Thạch Bàn chuyên cung cấp các sản phẩm sữa của Vinamilk.
 Với sản phẩm sữa đậu nành tự chế biến tại trường, chúng tôi có công thức chế biến theo một quy trình nghiêm ngặt do y tế quận cấp phép, đảm bảo sữa cung cấp cho các con bổ dưỡng, không chất bảo quản.
 Chất lượng thực phẩm từ khâu vận chuyển đến khâu giao nhận thực phẩm tại bếp ăn của nhà trường phải đủ thành phần, cung cấp phải đảm bảo kịp thời, đảm bảo số lượng và chất lượng tươi ngon, sạch sẽ, không bị dập nát, không héo hoặc ôi thiu, dụng cụ đựng phải sạch sẽ và có nắp đậy. Bên A kiểm nghiệm thực phẩm trước khi nhận hàng. Nếu có trường hợp thực phẩm không đảm bảo chất lượng, có thể gây ra ngộ độc, thì bên B sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm với bên A.
 Ngoài việc lấy thực phẩm từ nhà cung cấp, tận dụng diện tích vườn trường, tôi đã tham mưu đề xuất với đồng chí hiệu trưởng cho xây dựng những luống rau sạch đưa vào thực đơn hàng tuần cho trẻ. Để chăm được vườn rau này thì các cô nhà bếp và các giáo viên trên lớp cùng với trẻ thực hiện. Các buổi hoạt động ngoài trời trẻ không những rất hứng thú khi được chăm sóc vườn rau mà khi thu hoạch cho các cháu ăn, các cháu ăn cũng ngon miệng, hào hứng hơn với sản phẩm mình chăm sóc. Vườn rau sạch của trường đã phát huy hiệu quả, một tuần một lần các cháu được ăn rau sạch của trường một lần đảm bảo nguồn thực phẩm tại chỗ an toàn.
Vườn rau sạch nhà trường
3.4. Thực hiện tốt công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm, chế biến thực phẩm, đảm bảo bếp một chiều:
 Khi đã ký kết hợp đồng với bên cung cấp thực phẩm là một yêu cầu quan trọng nhưng khi tiếp nhận thực phẩm là một quy trình nghiêm ngặt mà phải thực hiện hàng ngày để kịp thời phát hiện ra thực phẩm không đạt chất lượng để trả lại bên cung ứng đổi thực phẩm khác đưa vào chế biến thức ăn cho trẻ.
 Tôi phân công lịch giao nhận thực phẩm tại bảng phân công trong bếp. Hàng ngày gồm có các thành phần: bên giao hàng và bên nhà trường gồm kế toán, y tế hoặc thanh tra, giáo viên trên lớp, đại diện ban giám hiệu và bếp chính với đủ sổ giao nhận thực phẩm và cân, rổ, chậu thau.
 Khi giao nhận thực phẩm tôi đã chỉ đạo đổ hết thực phẩm từ trong bao, túi ra thau chậu và kiểm tra kỹ lưỡng từng mặt hàng từ sờ, ngửi, cảm quan bằng mắt để lựa chọn thực phẩm tươi ngon, không dập nát, ôi thiu. Với những thực phẩm khô, bao gói tôi cho kiểm tra hạn sử dụng trên bao bì. Từng loại thực phẩm sẽ được ghi vào sổ với số cân đầy đủ, tình trạng thực phẩm ra sao.
 Khi thực phẩm đảm bảo chất lượng, các bên liên quan sẽ ký đầy đủ vào sổ giao nhận thực phẩm.
 Các nhân viên nhà bếp khi đến làm việc tuyệt đối không để đồng dùng cá nhân tại bếp và phải mặc trang phục lao động đi ủng, mặc đồng phục của trường, đội mũ, đeo khẩu trang. 
 Tôi đã chỉ đạo cô nuôi và nhân viên nhà bếp cần lưu ý: tuyệt đối không mua thực phẩm không rõ nguồn gốc, hạn dùng hoặc quá hạn sử dụng, không mua thực phẩm có sẵn và thực phẩm đã qua sơ chế. Không mang thực phẩm ngoài, thực phẩm của mình vào trong bếp.
Giao nhận thực phẩm tại bếp
 Các thực phẩm sơ chế ngay thì cho lên trên bàn để sơ chế, còn thực phẩm cần bảo quản thì cho vào ngăn mát tủ lạnh của nhà trường. Các thực phẩm tuyệt đối không dặt xuống dưới đất. Khi sơ chế thô xong, thực phẩm sẽ được rửa sạch dưới vòi nước chảy sau đó sơ chế tinh như say, thái 
 Khi chế biến thực phẩm phải đảm bảo chất lượng tươi ngon, mất ít chất dinh dưỡng, màu sắc đẹp hấp dẫn với trẻ, đảm bảo an toàn vệ sinh. Thức ăn phải được nấu chín kĩ, nhỏ, nhừ, nấu xong cho trẻ ăn ngay. Thực hiện nghiêm túc quy định về lưu mẫu tức ăn theo đúng quy trình, mẫu thức ăn phải được lấy trước khi cho trẻ ăn. Hộp đựng mẫu thức ăn phải sạch sẽ, có nhãn mác, có nắp đậy, có niêm phong.
 Trước khi nhận thực phẩm sống đưa vào chế biến, nhân viên cấp dưỡng rửa dụng cụ: Dao, thớt sạch sẽ tránh để nhiễm khuẩn, rêu mốc trên dao thớt. các dụng cụ chế biến phải đảm bảo vệ sinh được rửa sạch để ráo nước trước khi sử dụng.
 Chế biến thực phẩm phải tuân thủ theo quy trình bếp một chiều (Cửa 1 vào bàn giao nhận thực phẩm, sơ chế thô, sơ chế tinh, nấu chín, chia ăn và đẩy thức ăn lên các lớp qua cửa ra 2) 
 Các dụng cụ chia ăn, cho trẻ ăn được sấy trước khi dùng như bát, thìa, xoong, nồi.
 Đồ dùng ăn uống mang trên lớp cho trẻ chuẩn bị dư số bát thìa so với số trẻ để phòng trẻ làm rơi.
 Khi chia thức ăn cho trẻ đủ cân, đủ lạng theo sổ sách. Nồi, xoong, có nắp đậy kín mang lên cho các lớp phải ký số giao nhận đủ thức ăn.
 Tôi thường xuyên kiểm tra khâu giao nhận thực phẩm và khâu chia thức ăn lên các lớp. Kiểm tra chất lượng bữa ăn trước khi chia đồ ăn lên các lớp để đảm bảo lượng thức ăn đủ, ngon, màu sắc hấp dẫn trẻ và các xoong thức ăn được đậy kín tránh côn trùng.
 3.5. Chú trọng trong công tác vệ sinh khu vực bếp và vệ sinh môi trường 
 Bếp ăn bán trú của trường được xây dựng bếp theo quy định một chiều. Cửa đưa thực phẩm tươi sống, sơ chế thực phẩm, phân chia thức ăn chín, cửa vận chuyển thức ăn chín lên các nhóm lớp. Thực hiện nguyên tắc bếp một chiều nhằm tránh thực phẩm sống và chín cùng đi chung một lối. Bếp ăn được xây dựng đẹp và công tác vệ sinh hàng ngày là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy tôi cho nhà bếp một lịch phân công cụ thể vệ sinh hàng ngày, tổng vệ sinh vào chiều thức 6 hàng tuần.
 Vệ sinh hàng ngày: vệ sinh các khu vực sơ chế tinh, sơ chế thô, khu nấu, khu chia ăn, sàn bếp, phòng ăn của giáo viên Tổng vệ sinh chiều thức 6 hàng tuần: Vệ sinh thang tời, vệ sinh tủ cơm, vệ sinh các giá kệ để thau chậu, tủ đựng thớt, dao, tủ đựng bát, thìa, tủ lạnh
 Các đồng dùng, dụng cụ nhà bếp được tôi sắp xếp ở các vị trí các khu vực sao cho thuận tiện, gọn gàng và có biển đề rõ ràng nơi tiếp phẩm và nơi sơ chế, khu nấu chín và nơi chia thức ăn cho từng lớp.
 Các đồ dùng ăn uống của trẻ được xấy và tráng nước sôi hàng ngày trước khi sử dụng.
 Tại bếp ăn tôi đặt thực đơn theo tuần, bảng định lượng suất ăn hàng ngày và công khai tài chính. Hàng ngày tôi phải thực hiện nghiêm túc việc tính khẩu phần ăn cho trẻ và nhắc nhở nhân viên bếp thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh nhà bếp. 
 Rác thải hàng ngày phải để đúng nơi quy định, cống rãnh phải được khơi thoáng, không ứ đọng. khi có chiến dịch tổng vệ sinh toàn trường tôi cho rắc vôi bột vào các khu vực miệng nắp cống.
 Một năm hai lần nhà trường tổ chức chiến dịch phun thuốc muỗi toàn bộ các lớp học và xung quanh trường để phòng dịch bệnh sốt xuất huyết.
 Vệ sinh đối với cô nuôi, nhân viên nhà bếp và trẻ:
 Cô nuôi, nhân viên nhà bếp được tập huấn và bồi dưỡng những kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, nắm vững trách nhiện của mình trong công tác nuôi dưỡng. Cần thực hiện tốt vệ sinh cá nhân trong quá trình chế biến món ăn cho trẻ, trang phục, đầu tóc gọn gàng, móng tay móng chân cắt ngắn, rửa tay bằng xà phòng trước khi chế biến và sau khi chế biến thức ăn cho trẻ. Phải tuân thủ theo quy định sử dụng chế biến theo cửa một chiều. Khi cho trẻ ăn cần đeo khẩu trang, không dùng tay bốc, chia thức ăn, thực hiện cân đong, chia thức ăn cho trẻ đảm bảo vệ sinh, đầy đủ định lượng.
 Đối với nhân viên nấu ăn phải kiểm tra sức khỏe 2 lần/năm (vào đầu năm học mới và sau 6 tháng làm việc tiếp theo). 
 Thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt hàng ngày phù hợp với độ tuổi, chú trọng công tác nuôi dưỡng vào các thời điểm vệ sinh cho trẻ, trước khi ăn cho trẻ rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước chảy. Dạy trẻ biết rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Rèn trẻ có thói quen vệ sinh văn minh trong ăn uống. Tạo cho trẻ có môi trường hoạt đông tốt phù hợp ,không khí thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, giúp trẻ có hứng thú đến trường.
 Các lớp hàng ngày vệ sinh lớp học sạch sẽ, sắp xếp các giá góc gọn gàng, nhà vệ sinh khô dáo, sạch sẽ.
 Trong chiến dịch phòng chống bệnh sốt xuất huyết đầu năm học, phòng chống bệnh tay chân miệng, sởi vào tháng 3 và tháng 4 vừa qua, tôi đã chỉ đạo phun thuốc muỗi toàn trường, tổng vệ sinh toàn trường trong đợt cao điểm. Cho các lớp học khử khuẩn bằng dung dịch cloraminB như rửa đồ chơi, lau sàn nhà, lau các nắm đấm cửa
 Các khu vực xung quanh bếp và khu vực sân trường được vệ sinh hàng tuần. Các lan can cầu thang, hành lang các lớp, bồn cây, sân trường được tổng vệ sinh vào thứ sáu hàng tuần. Được lau chùi, cọ rửa, nhổ cỏ, nhặt rác, quyét sạch lá cây tạo môi trường Xanh- sạch – đẹp – nở hoa trong trường.
Giáo viên vệ sinh trường thứ 6 hàng tuần
3.6. Thực hiện tốt việc theo dõi biểu đồ, khám sức khỏe cho trẻ, tuyên truyền tới phụ huynh
 Ngay từ đầu năm học, tôi đã lên kế hoạch phối hợp trung tâm y tế khám sức khỏe định kì cho trẻ tối thiểu một năm hai lần, giáo viên theo dõi biểu đồ tăng trưởng của trẻ nhằm phát hiện trẻ suy dinh dưỡng, béo phì để có biện pháp kết hợp giữa gia đình và nhà trường quan tâm chăm sóc, giúp đỡ trẻ.
 Thường xuyên đọc các bệnh dịch theo mùa, cách phòng tránh trên loa phát thanh của trường. Không những thế giáo viên và phụ huynh còn sưu tầm các bài tuyên truyền về an toàn thực phẩm, dinh dưỡng bữa ăn hợp lý cho trẻ để đọc tuyên truyền.
 Phối hợp với phụ huynh rèn cho trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ: như tự xúc ăn, vệ sinh trước và sau khi ăn
 Tuyên truyền các bà mẹ tiêm chủng mở rộng phòng tránh một số bệnh thường gặp.
 Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền với các ban ngành địa phương và phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng bằng nhiều hình thức như: họp phụ huynh đầu năm, các hội thi dinh dưỡng tuổi thơ, tuyên truyền trên thông tin đại chúng, áp phích, băng rôn, tranh ảnh, tờ rơi... và thường xuyên mời phụ huynh đến thăm bếp ăn tại trường, từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, góp phần bảo vệ sức khỏe, giúp trẻ phát triển toàn diện. 
 Chuẩn bị hồ sơ và sổ khám sức khỏe cho trẻ, tập chung trẻ, báo cáo trung tâm y tế xếp lịch khám đúng thời gian.
 Báo cáo kết quả cân đo, khám sức khỏe tới 100% phụ huynh. Với những cháu mắc bệnh, những cháu suy dinh dưỡng hay béo phì đều được thông báo tới các bậc phụ huynh học sinh để có biện pháp can thiệp kịp thời.
(y tế phường, quận khám sức khỏe cho trẻ)
 Trong chiến dịch phòng chống dịch bệnh theo mùa vào tháng 4, các cháu nghỉ học phải có thông báo lý do cho giáo viên. Sau đó giáo viên tổng hợp báo lên y tế trường để kịp thời theo dõi diễn biến của bệnh dịch nếu có. 
4. Hiệu quả của SKKN .
 Qua quá trình nghiên cứu và đưa ra các biện pháp trong quản lý chỉ đạo thực hiện hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ sức khỏe cho trẻ trong trường mầm non, nhà trường chúng tôi đã thu dược rất nhiều kết quả hết sức khích lệ cụ thể như:
 Số trẻ đến trường ngày càng đông. Các cháu được đảm bảo an toàn 100% tại trường. Trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi tỷ lệ giảm xuống còn 1%. kết quả so với đầu năm được thể hiện như 
* Kết quả trên trẻ.
Độ tuổi
Tổng số trẻ
Cân nặng
chiều cao
Cân nặng bình thường
Suy dinh dưỡng độ 1
Suy dinh dưỡng độ 2
Cao bình thường
Thấp còi độ 1
Thấp còi
 độ 2
Nhà trẻ
68
66
2
65
3
Mẫu giáo
743
737
6
735
8
Cộng:
811
803
8
800
11
Tỷ lệ:%
100
99
1
98,6
1,4
 Từ kết quả khảo sát, nhà trường cùng với giáo viên tích hợp một số kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm vào nội dung của các chủ điểm. 
 Kết quả trẻ thích nghi với chế độ sinh hoạt hằng ngày, môi trường sống và có nề nếp thói quen tốt trong ăn uống, ngủ, vệ sinh, cơ thể phát triển cân đối hài hòa. Nhằm nâng cao nội dung giáo dục dinh dưỡng, nhà trường tiến hành cải tạo môi trường hoạt động cho trẻ: Sân trường được dải cỏ, trẻ chơi được sạch sẽ an toàn.
 Trẻ có kỹ năng vệ sinh tốt như lau mặt rửa tay trước và sau khi ăn, kỹ năng tự phục vụ tốt như tự lấy gối,cất gối, ngủ đúng giờ, tự rửa tay khi tay bẩn. Bước đầu trẻ cũng thực hiện nếp sống ba sạch “ăn sạch, ở sạch, tay sạch”. Trẻ thích đến lớp.
 Không có dịch bệnh nào xảy ra tại trường học trong năm học vừa qua. 
* Kết quả thể hiện ở giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng
 100% giáo viên ,nhân viên đã nhận thức được cách chăm sóc giáo dục trẻ khoa học.
 Các giáo viên đã nắm được quy trình tổ chức giờ ăn hợp vệ sinh, hàng ngày rèn thói quen vệ sinh, ăn sạch, ở sạch, bàn tay sạch cho trẻ. Lớp học luôn sạch sẽ, thoáng mát.
 Mỗi giáo viên là một tuyên truyền viên tích cực đến các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng về kiến thức nuôi dạy con . 
 Nhà trường thực hiện tốt mô hình phòng chống suy dinh dưỡng như thông qua việc khám sức khỏe, cân đo theo dõi biểu đồ, tiêm chủng phòng bệnh. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục dinh dưỡng cho trẻ, kết hợp lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ qua các hoạt động như tổ chức bữa ăn, các hoạt động khác trong ngày cho trẻ tại trường mầm non
Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ qua biểu đồ tăng trưởng, 
 Cán bộ phụ trách chuyên môn nuôi dưỡng và 01nhân viên nuôi được đi tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Được cấp phát tài liệu về vệ sinh an toàn thực phẩm để nghiên cứu. Sau những buổi bồi dưỡng và tập huấn giáo viên – nhân viên đã nhận thức đầy đủ về dinh dưỡng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm là sự cần thiết trong công việc giáo dục trẻ.
 100% nhân viên nuôi dưỡng có nhận thức đúng đắn về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu giao nhận đến khâu chế biến và chia ăn. Hàng ngày thực hiện đúng quy trình bếp một chiều và vệ sinh bếp sạch sẽ.
* Kết quả đối với phụ huynh.
   Qua việc tuyên truyền cho các bậc phụ huynh, kết quả về giáo dục dinh dưỡng được nâng cao cụ thể là:
  Phụ huynh đã biết quan tâm chăm sóc sức khỏe của trẻ, hướng dẫn trẻ biết các thức ăn cần thiết cho cơ thể. Nâng cao nhận thức về an toàn thực phẩm hàng ngày khi lựa chọn những thực phẩm cho trẻ ăn.
 Phụ huynh đã nhận thức đầy đủ hơn về công tác chăm sóc giáo dục trẻ, đã tham ra đóng góp cho chuyên đề, cung cấp tài liệu về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. 
III. KẾT LUÂN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
 Công tác chăm sóc- nuôi dưỡng trẻ là một trong những vấn đề rất quan trọng để giúp trẻ phát triển toàn diện. vấn đề giáo dục trẻ là nhiệm vụ trọng đại mang tính chất phát triển chiến lược trong sự nghiệp của toàn nhân loại, là trách nhiệm nghĩa vụ của Đảng - nhà nước và của xã hội nói chung và là trách nhiệm và nghĩa vụ của trường mầm non nói riêng.Chất lượng nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường hợp lí, sức khoẻ trẻ đảm bảo giúp trẻ học tốt và tham gia tốt vào các hoạt động. Chính vì vậy việc chỉ đạo nâng cao chất lượng nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường mà trực tiếp là những bữa ăn cho trẻ là một yếu tố không thể thiếu được đối với lứa tuổi mầm non.Trẻ phải luôn luôn được rèn luyện, chăm sóc nuôi dưỡng có khoa học, có kế hoạch cụ thể thì trẻ mới được khoẻ mạnh, thông minh,có một thể lực tốt để trẻ phát triển toàn diện.
 Căn cứ vào kết quả thực nghiệm tôi đưa ra các biện pháp mà giáo viên ,nhân viên áp dụng để sử dụng trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non.
 Đầu năm khi trẻ đến trường tiến hành khảo sát điều tra tình hình sức khoẻ của trẻ. từ thực tế đó có kế hoạch chăm sóc nuôi dưỡng theo khoa học hợp lí để giúp trẻ giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng và hạn chế dịch bệnh cho trẻ có một cơ thể tốt.
 Cần bồi dưỡng cho giáo viên, nhân viên dự các lớp tập huấn, tổ chức hội thi về chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường.
 Giáo viên cần hướng dẫn cho trẻ biết lao động tự phục vụ bản thân như: Vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường trong và ngoài lớp học vệ sinh nơi công cộng.
 Giữ được vệ sinh an toàn thực phẩm, không để sảy ra ngộ độc thức ăn sẽ phòng tránh được nhiều bệnh dịch, cơ thể trẻ sẽ khoẻ mạnh để tham gia vào mọi hoạt động bổ ích.
 Ngoài ra còn bằng hình thức tuyên truyền vận động phụ huynh học sinh phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể để mở rộng kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng sức khoẻ trẻ .
 Những biện pháp chúng tôi đã thực hiện trong sáng kiến kinh nghiệm này hy vọng sẽ được tiếp tục có hiệu quả trong việc tổ chức,quản lý công tác chăm sóc nuôi dưỡng cho trẻ ở trường Mầm Non Việt dân vào những Năm tiếp theo. Tuy nhiên, sáng kiến này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót kính mong hội đồng thi đua khen thưởng của ngành và đồng nghiệp vui lòng góp ý, bổ xung để sáng kiến được hoàn thiện hơn!
2. Kiến nghị. 
 - Đối với trung tâm y tế.	
 Mở các lớp tập huấn vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh dinh dưỡng bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên giúp nhân viên làm giàu tri thức và kinh nghiệm trong công tác chăm sóc trẻ, nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, béo phì cho trẻ. 
 Để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thưc phẩm được tốt thì sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ giáo viên , nhân viên trong trường chưa đủ mà cần có sự quan tâm giúp đỡ của các cấp các ngành về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dụng cụ phục vụ cho quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. 
 - Ban giám hiệu nhà trường:
 Cần phối hợp chặt chẽ các đoàn thể trong nhà trường thực hiện tốt các phong trào thi đua và các cuộc vận đông, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát khâu giao nhận thực phẩm và chế biến món ăn cho trẻ. Tăng cường  bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Tham mưu với các cấp các ngành tăng cường đầu tư kinh phí mua sắm cơ sở vật chất trang thiết bị đảm bảo nhu cầu chăm sóc- nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. 
 - Đối với giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng: 
 Yêu nghề có tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cao trong công việc. Yêu thương trẻ như chính con em ruột thịt của mình, luôn tự học, tự rèn,nâng cao trình độ chuyên môn làm tốt công tác tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học  với các bậc phụ huynh nói chung.
 Khi chế biến thức ăn cho trẻ chú trọng khâu đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, không làm thất thoát thực phẩm và đồ ăn ngon miệng, màu sắc hấp dẫn trẻ. 
 - Đối với phụ huynh học sinh: 
 Quan tâm đến con, phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp với nhà trường cùng thống nhất chăm sóc- nuôi dưỡng và giáo dục trẻ theo khoa học, giúp trẻ phát triển toàn diện để chuẩn bị tốt cho trẻ vào học trường phổ thông.
 Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non” . trong lĩnh vực quản lý chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong nhà trường . Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chia xẻ của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến được áp dụng trong những năm học tiếp theo.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO- MỤC LỤC
1. Nghi quyết Trung ương II (khóa VIII) NXB CTQG Hà Nội/ 1997
Tài liệu bồi dưỡng cán bộ QL,I, III, NXB HVQLGD Hà Nội/2007
Lê Văn Ất kinh nghiệm GDMN- NXBGD HN/2006
Tài liệu bồi dưỡng CBQL. MN năm học 2005- 2006
Chiến lược phát triển GD 1998- 2020 của bộ GD –ĐT
Một số vấn đề chăm sóc giáo dục sức khỏe, dinh dưỡng, môi trường cho trẻ từ 0-6 tuổi (Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1998-2000)
7. Chương trình chăm sóc G D các đọ tuổi , nhà trẻ mẫu giáo năm 2000-2005.
8. các văn bản quy định về VATTP của bộ y tế và bộ giáo dục.
9. Các kênh thông tin , tuyên truyền về VATTP.

File đính kèm:

  • docquan_ly_thuymnhtt_123201910.doc
Sáng Kiến Liên Quan