Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở Lớp 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Vai trò của dạy học giải toán ở Tiểu học nói chung và giải các bài toán có lời văn ở lớp 3 nói riêng
- Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán và các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú những vấn đề thường gặp trong đời sống.
- Nhờ giải toán học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phần cần thiết vì giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái cần tìm. Trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
- Dạy học giải toán giúp học sinh phát hiện giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích, tổng hợp rút ra quy tắc ở dạng khái quát.
- Trong chương trình toán 3 thì giải toán cũng là một mạch kiến thức khác và có ý nghĩa đặc biệt trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt qua việc giải các bài toán có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị là các dạng toán có ý nghĩa thực tiễn liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Vì vậy nó được coi là cầu nối giữa toán học và thực tiễn, chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong chương trình toán 3.
2. Nội dung dạy các bài toán điển hình có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
a. Nội dung dạy các bài toán điển hình có nội dung hình học được học thành 4 tiết lý thuyết và 3 tiết thực hành, cụ thể:
+ Chu vi hình chữ nhật, chu vi hình vuông.
+ Diện tích hình chữ nhật, diện tích hình vuông.
b. Nội dung dạy các bài toán có lời văn liên quan đến rút về đơn vị được học thành 2 tiết, cụ thể:
+ Tiết 122: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị (giải bằng phép tính chia và phép tính nhân.
+ Tiết 157: Bài toán được giải bằng 2 phép tính chia.
ận dụng quy tắc tính, nhầm giữa tính chu vi hình vuông sang tính diện tích hình vuông, nhầm giữa tính chu vi hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật. + Trong bài giải bài toán về chu vi, diện tích các hình (Bài 3 trang 155- Toán 3) khi viết tên đơn vị đo, các em còn bỏ sót, nhầm lẫn. Thông thường kích các cùng đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì đơn vị đo lại khác. Chẳng hạn: Với hình chữ nhật có chiều dài 9 cm, chiều rộng 6 cm thì đơn vị đo của chu vi là cm, nhưng đơn vị đo của diện tích là cm2. Cụ thể là: Chu vi hình chữ nhật là: (9 + 6 ) x 2 = 30 (cm) Diện tích hình chữ nhật là: 9 x 6 = 54 (cm2) + Trong trường hợp số đo các cạnh không cùng đơn vị thì học sinh chưa biết đổi ra cùng đơn vị đo. VD: Tính diện tích và chu vi hình chữ nhật có chiều dài là 4 dm, chiều rộng là 8 cm. - Học sinh yếu kém nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu. - Học sinh yếu còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng chu vi chia cho 4. - Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tồng hợp kiến thức của các em còn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai. VD: Bài toán + Cho cạnh hình vuông tính chu vi và diện tích, học sinh nhầm giữa hai cách tính nên kết quả bị sai. + Cho chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật. Tính chu vi, diện tích. Học sinh lại nhầm hai công thức tính dẫn đến kết quả sai. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Dạng 1 + Bước 1: Rút về đơn vị, tìm giá trị một phần - Học sinh nhầm khi trả lời chưa rõ ràng - Sau khi thực hiện phép tính chia ghi danh số sai với câu trả lời VD: Bài 2 trang 128 “Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?” Học sinh trả lời sai: Danh số kết quả sau: 28 : 7 = 4 (bao) Học sinh phải làm đúng là: 28 : 7 = 4 (kg) Bước 2: Tìm 5 bao có số ki-lô-gam gạo là: 4 x 5 = 20 (kg) Học sinh hay đặt ngược phép tính là: 5 x 4 = 20 (bao) Như vậy: Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay trả lời sai hoặc sai danh số, phép tính sai vì đặt ngược. Dạng 2: Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia Bước 2: Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu hỏi của bài toán. - Học sinh thường sai: Trả lời sai, ghi danh số nhầm VD: Bài toán 2 trang 166 Bước 1: tìm giá trị một phần - Học sinh trả lời sai 3. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên a. Nguyên nhân khách quan - Do đặc thù tình hình của địa phương là vùng đất nông nghiệp 90% học sinh là con em nông dân trong đó có đến 50% là con nông dân nghèo, điều kiện kinh tế gia đình eo hẹp dẫn đến điều kiện học tập của các em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. - Một số gia đình chưa thực sự quan tâm động viên các em kịp thời cũng như tạo điều kiện tốt hơn để các em học tập. b. Nguyên nhân chủ quan - Giáo viên: Trong giảng dạy, một số giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, nhịp độ giảng dạy quá nhanh khiến học sinh yếu, kém không theo kịp. Một số giáo viên còn thiếu tinh thần trách nhiệm với học sinh. Việc đầu tư cho chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, chưa nắm vững yêu cầu về kỹ thuật và kỹ năng của bài toán, chưa quan tâm đến học sinh yếu, kém. - Học sinh: + Sự phát triển nhận thức của một số em còn chậm, không đồng đều, hoạt động tư duy logic kém. Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố gắng, thiếu tự tin. + Ngoài ra, có em do sức khỏe chưa tốt, gia đình chưa quan tâm đến việc học hành của các em. Một số phụ huynh do không nắm được cách giải toán ở tiểu học nên không hướng dẫn được cho các em hoặc hướng dẫn các em những cách giải toán của bậc Trung học cơ sở. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả dạy và học xong đây chỉ là một số nguyên nhân mà trong chương trình công tác và nghiên cứu làm đề tài tôi phát hiện ra. Những nguyên nhân trên tác động lẫn nhau làm giảm hứng thú học tập của học sinh, làm cho cac em thiếu tự tin cố gắng vươn lên dẫn đến kết quả học tập không tốt. Để khắc phục những tồn tại trên cần phải có biện pháp khắc phục hợp lí. III. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Việc dạy học gải toán ở tiểu học là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc ghép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh nắm vững khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữTổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. Vậy qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi xin đưa ra một số biện pháp sau đây. 1. Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải toán Đây là vấn đề vô cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học sinh, thay thế cho việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh phải thuộc lòng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tòi khám phá kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học sinh muốn giải được các bài toán thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc giải toán mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết. Do vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh cần tìm ra được cách giải bài toán và cần phải được chính xác hóa nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Qua quá trình tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dựa trên những cái đã biết giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ lâu kiến thức ấy hơn nếu như tự mình tìm ra kiến thức ấy Học sinh cần nắm chắc quy tắc, công thức tính, các bước tính của một phép tính từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính toán. Đối với loại toán có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc điểm cảu một hình vẽ là rất quan trọng. Ví dụ: Khi dạy về “Diện tích hình chữ nhật” giáo viên cần cho học sinh nhắc lại đặc điểm của hình chữ nhật thông qua hình vẽ. + Khả năng cắt ghép hình tam giác thành hình chữ nhật. + Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ. Chẳng hạn, đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính. Bài tập VD: Cho hình chữ nhật có cạnh dài là 8cm, cạnh ngắn là 5cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ? Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã được trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài toán đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, giáo viên cần rèn cho các em kỹ năng này. VD: Bài toán: Cho hình chữ nhật có nửa chu vi là 22cm, cạnh ngắn là 9 cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ? - Khi giải bài toán không có cùng đơn vị đo thì phải biết đổi ra cùng một đơn vị đo. VD: Số đo cạnh theo mm, số đo diện tích theo cm2. Vậy phải đổi số đo cạnh ra cm. - Giáo viên cần lưu ý cho học sinh: + Với hình chữ nhật có số đo chu vi là cm, thì đơn vị đo của diện tích là cm2 + Với hình vuông có số đo chu vi là cm thì đơn vị đo của diện tích hình vuông là cm2. *Với bài toán liên quan đến rút về đơn vị: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết đề bài yêu càu tính cái gì? Bài toán thuộc dạng 1 hay dạng 2 để giải bài toán. Ví dụ: + Bài toán ở dạng 1 thì phải tìm giá trị của một phần là thực hiện phép chia rồi mới tìm được giá trị của nhiruf phần (thực hiện phép tính nhân). + Bài toán chia ở dạng 2 thì: Bước 1 cũng phải tìm giá trị một phần (thực hiện phép tính chia) nhưng ở bước 2 thì lại khác với bước 2 ở dạng 1 đó là biết giá trị một phần rồi lại tiếp tục thực hiện phép chia để tìm kết quả theo yêu cầu của bài toán. *Điều quan trọng chủ yếu khi dạy giải toán là dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không được làm thay, không được áp đặt cach giải cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán tập trung vào 3 bước: + Tính toán để biết bài toán cho gì, hỏi gì, yêu cầu gì? + Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán (giả thiết) với yêu cầu của bài (kết luận) để tìm ra phép tính tương ứng. + Trình bày bài giải, viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số. 2. Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán điển hình Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình, tôi nhận thấy rèn kĩ năng giải toán cho học sinh là một biện pháp không thể thiếu trong qua trình dạy học. Do đặc điểm của môn toán ở tiểu học được cấu tạo theo kiểu đồng tâm các nội dung được củng cố thường xuyên và được phát triển dần từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Sau khi đã lĩnh hội kiến thức, kĩ năng toán học, để định hình vững chắc kiến thức ấy, học sinh cần rèn luyện vận dụng qua các dạng bài tập khác nhau, có yêu cầu cao hơn. Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc suy luận, phán đoán và kỹ năng. - Phân tích đề bài toán: Là một kỹ năng quan trọng nhất Ví dụ: Bài toán 1 “Một tờ giấy hình chữ nhật có chiều dài 72cm, chiều rộng bằng 1/8 chiều dài. Tính diện tích tờ giấy đó”. Để giải được bài toán này học sinh cần phải phân tích đề và dựa vào những yếu tố đã biết để giải. + Bài toán đã biết chiều dài chưa? + Bài toán đã biết chiều rộng chưa? Vậy để tính được diện tích tờ giấy thì ta phải tính gì trước? Qua hàng loạt câu hỏi đặt ra để phân tích yêu cầu bài toán, trả lời được các câu hỏi đó, học sinh sẽ làm được bài tập dễ dàng. Với các kỹ năng đã có của học sinh, giáo viên là người giúp học sinh rèn luyện và phát huy những kỹ năng ấy, cần cho học sinh nắm rõ thuật ngữ toán học”chiều rộng bằng 1/8 chiều dài nghĩa là gì? Biết phân tích và tóm tắt bài toán bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có thể nêu lại được bài toán, từ đó lập kế hoạch giải, do vậy giáo viên cần hướng dẫn: + Muốn tính được diện tích tờ giấy ta cần dữ liệu nào? (có chiều dài, có chiều rộng). + Tìm chiều rộng bằng cách nào ? Lấy 72 : 8 = 9 (cm) Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể sẽ tìm cách giải bài toán về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được công thức tính. *Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Giáo viên cũng vận dụng cách hướng dẫn trên, yêu cầu học sinh phân tích kỹ yêu cầu bài toán, xem bài toán thuộc dạng toán 1 hay dạng toán 2. Vận dụng công thức tính đến việc suy luận cho nên việc xác định dạng toán là rất quan trọng. VD: “Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiều hàng như thế ?”. Để giải được bài toán này học sinh cần phải đọc kỹ bài toán phân tích tóm tắt bài toán, xem bài toán cho biết gì ? Bài toán yêu cầu những gì ? Tóm tắt: 24 cúc áo: 4 cái áo 42 cúc áo: cái áo Sau đó lập kế hoạch giải + Bài toán đã cho biết dữ kiện nào ?(4 cái áo thì cần 24 cái cúc). + Bài toán yêu cầu làm gì ? (42 cái cúc áo thì dùng cho mấy cái áo như thế) Vậy muốn biết 42 cúc áo thì dùng cho mấy cái áo thì ta phải đi tính gì trước? (Mỗi cái áo cần mấy cái cúc ?) 24 : 4 = 6 (cúc) Khi đã tính được một cái áo cần mấy cái cúc thì học sinh sẽ tìm được 42 cúc dùng cho mấy cái áo ? (lấy 42 : 6 = 7 (áo) Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp. 3. Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài toán và lập được kế hoạch giải cho bài toán thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài toán không bị sai, phép tính chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn mà đủ ý. Bài toán hỏi gì thì trả lời nấu nghĩa là biết dựa vào câu hỏi của bài toán để trả lời. *Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả lời bài toán sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài toán cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để đáp số bài toán không bị sai theo. *Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng cố những kiến thức có liên quan đến giải toán điển hình có ý nghĩa thực tiễn. Từ đó các em sẽ trình bày đúng bài giải. Chẳng hạn bài toán 1 trang 153, học sinh cần phải nhận xét: Xét 2 cạnh hình chữ nhật không cùng số đo nên phải đổi ra cùng đơn vị đo: 4 dm = 40 cm, sau đó mới trình bày bài giải: 4 dm = 40 cm Diện tích hình chữ nhật là: 40 x 8 = 320 (cm2) Chu vi hình chữ nhật là: (40 + 8 ) x 2 = 96 (cm) Đáp số: 320 cm2; 96 cm Khi học giải toán xong thì giáo viên phải cho học sinh kiểm tra cách giải và kết quả là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán và trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ thiểu học. Việc này nhằm phân tích (thử lại) cách giải hay đúng sai Khi đã có những kỹ năng giải toán tốt giáo viên cần dạy cho học sinh những thủ thuật giải toán trong từng khâu, từng bước giải. *Ngoài ra những biện pháp đã nêu ở trên để có kết quả học tập tốt thì mỗi giáo viên cần có tâm huyết với nghề, có nghệ thuật sư phạm, có trách nhiệm trước học sinh. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, phải luôn tự bồi dưỡng trau dồi nâng cao trình độ nhận thức cho bản thân. Giáo viên cần có năng lực tổ chức các hoạt động dạy học phong phú nhằm thu hút học sinh tham gia tốt vào hoạt động học và rèn luyện cho học sinh năng lực khái quát hóa trong giải toán. IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Với những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả nhất định, học sinh giải các bài toán có nội dung hình học và dạng toán liên quan đến rút về đơn vị ngày càng tiến bộ. Học sinh có tư duy sáng tạo, tìm hiểu đúng yêu cầu của đề bài, trình bày bài giải đúng theo yêu cầu của bài toán. Kết quả đạt được trong năm học 2013 - 2014 là: Lớp TSHS Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu TS Tỉ lệ % TS Tỉ lệ % TS Tỉ lệ % TS Tỉ lệ % 3A 32 12 37,4 9 28,1 11 34,5 0 0 Như vậy lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong việc giải các bài toán điển hình. Tuy kết quả này chưa thực sự đã là cao song bản thân tôi cũng thấy vui và tự tin vào việc làm của mình về sáng kiến kinh nghiệm mà mình đã thực hiện. Phần III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Qua quá trình thực nghiệm nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu, kém khắc phục khó khăn khi dạy và học các bài toán điển hình ở lớp 3’. Bản thân tôi nhận thấy rằng: Là người giáo viên nói chung và Giáo viên dạy tiểu học nói riêng phải luôn học hỏi kinh nghiệm, tự học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tự cập nhật kiến thức thông tin để đáp ứng kịp thời sự phát triển của ngành Giáo dục và của toàn xã hội. Để hướng dẫn học sinh có kiến thức và kỹ năng giải toán, giúp các em tránh sai sót, phát triển tư duy, óc sáng tạo, tăng hứng thú học toán cho học sinh đòi hỏi giáo viên thực hiện tốt các yêu cầu sau: - Phải nghiên cứu kỹ bài dạy, xác định đúng kiến thức của bài, thiết kế kế hoạch bài học phù hợp với trình độ của học sinh lớp mình phụ trách. Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích cực hóa người học. Sau mỗi bài cần nhấn mạnh, khắc sâu kiến thức cơ bản trọng tâm và đề ra phương pháp vận dụng thực hành chung cho từng dạng toán. - Khi dạy giải toán cần rèn cho học sinh đọc kỹ đề bài, hiểu đề bài, nhận biết được dữ liệu đã cho và yêu cầu cần tìm trong mỗi bài toán, nhận biết mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài. Hiểu và nhận biết được các từ, thuật ngữ, khái niệm toán họcBiết tóm tắt và giải toán bằng sơ đồ, hình vẽ. - Rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát, suy luận để giải bài toán. Dựa trên sơ đồ tóm tắt, trên cơ sở đó giáo viên gợi ý để học sinh tự tìm cách giải bằng việc định hướng, giúp học sinh phát hiện vấn đè và tìm cách giải quyết vấn đề. Điều cần lưu ý ở đây là giáo viên tuyệt đối không làm thay học sinh, mà cần kích thích học sinh suy nghĩ làm việc. Rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày giải toán sao cho ngắn gọn và đúng với mục tiêu của bài toán. - Thường xuyên hệ thống, củng cố lại kiến thức thông qua các tiết ôn tập, luyện tập để rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh. Từ đó giúp các em nhận dạng dễ dàng và nắm vững phương pháp, cách giải của từng loại toán có lời văn. Trên đây chỉ là nhận định của bản thân tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Vì vậy những khó khăn sai sót khi dạy học giải toán có lời văn vẫn còn xảy ra. Từ thực tế trên, những biện pháp khắc phục mà bản thân tôi đưa ra cũng chỉ từ thực tế mà tôi đã đúc kết được ở những năm học trước. Kết quả từ những biện pháp khắc phục nêu trên để giúp học sinh yếu, kém và các học sinh khác hiểu rõ, nhớ lâu các kiến thức và vận dụng linh hoạt vào việc giải toán đặc biệt là các bài toán có lời văn ở lớp 3, học sinh không còn cảm thấy lúng túng, khó khăn khi phải đối diện với các bài toán có lời văn. Ngoài ra còn rèn luyện được cho các em khả năng tư duy độc lập, suy luận hợp logic, có căn cứ, làm việc có kế hoạch, sáng tạođã góp phần thực hiện hoàn thành mục tiêu của môn toán ở tiểu học hiện nay. 2. Khuyến nghị - Để thực hiện được công việc này thì giáo viên chủ nhiệm phải theo dõi, uốn nắn các em, hướng dẫn các em thực hành thường xuyên nhất là đối với học sinh yếu. - Cần chú ý những học sinh cá biệt vì các em chậm chạp hơn so với các bạn trong lớp, giáo viên nên hướng dẫn cho em nhiều hơn hoặc chỉ định bạn học giỏi giúp đỡ em nhiều hơn để em thực hiện được như các bạn. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi giúp học sinh nắm vững phương pháp giải một số bài toán điển hình của lớp 3. Trong quá trình thực hiện chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn . Tôi xin chân thành cảm ơn ! - ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG: ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG THI ĐUA PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG HỶ MỤC LỤC Phần 1: MỞ ĐẦU TRANG STT NỘI DUNG 1 1 Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm 2 Mục đích nghiên cứu 3 Đối tượng nghiên cứu 4 Phạm vi nghiên cứu 5 Nhiệm vụ nghiên cứu 6 Phương pháp nghiên cứu Phần II: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1 Vai trò của dạy học giải toán ở tiểu học nói chung và giải các bài toán có lời văn ở lớp 3 nói riêng 2 Yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng cần đạt được 3 Các dạng bài tập 4 Phương pháp dạy học giải toán điển hình lớp 3 II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1 Thực trạng việc dạy học giải toán có lời văn của giáo viên 2 Thực trạng việc học giải toán điển hình của học sinh lớp 3 3 Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên III. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 1 Trang bị những công thức quy tắc, kỹ năng giải toán 2 Biện pháp hình thành và rèn luyện kỹ năng giải toán điển hình 3 Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải Phần III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1 Kết luận 2 Khuyến nghị
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_yeu.doc