Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở Lớp 3
Biện pháp 1: Dạy học phân hóa đối tượng học sinh:
Đối với biện pháp này Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát đánh giá nhận thức của các em , để biết được em nào nhận thức tốt em nào khá và em nào còn chậm. Sau đó tôi chọn lọc được nhóm học sinh chưa hoàn thành về môn Toán trong chương trình lớp 3 để có phương pháp theo dõi giúp đỡ các em suốt quá trình học tập.
Đối với những em đọc chưa tốt tôi xếp vào một nhóm để tiện theo dõi
Đối với học sinh lớp 3 là lớp giữa cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em chưa cao.
Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, môn học xếp loại chưa hoàn thành khi điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao.
Đối tượng học sinh chưa hoàn thành thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít quan tâm đến việc học.
Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục: Đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, chất lượng đầu vào.
Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Năm học 2022 – 2023 là năm đầu tiền thực hiện chương trình GDPT 2018, một năm học tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục. Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của việc lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh trong học tập. Quá trình dạy học Toán lớp 3 góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ năng vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có để tìm ra con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong qua trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải.Từ đó không thể nói mọi học sinh đều tiếp thu kiến thức được như nhau. Trong điều kiện học tập như nhau, có học sinh có thể nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần một sự cố gắng đặc biệt, trong khi các em khác lại không đạt được kết quả như vậy mặc dù cố gắng nhiều, đó chính là các em học chậm về môn toán.Vậy làm thế nào để giúp những học sinh chậm về môn toán có thể tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu chương trình và sách giáo khoa quy định. Đó là điều không chỉ bản thân chúng tôi trăn trở suy nghĩ mà còn là nỗi lo chung của toàn bộ giáo viên khi trong lớp mình có những học sinh chậm tiêp thu kiến thức của môn toán. Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặt khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh chậm thì sẽ làm cho các em 1 Đối tượng học sinh chưa hoàn thành thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít quan tâm đến việc học. Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục: Đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, chất lượng đầu vào. Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Biện pháp 2: Biện pháp phụ đạo HS chưa hoàn thành bài học trong môn Toán về các dạng toán điển hình. Hàng ngày tôi dành ra 15 phút đầu giờ truy bài để kèm cặp thêm những em chưa hoàn thành môn Toán, tôi đến sớm hơn và lên lớp để hướng dẫn các em các dạng bài tập cơ bản trong chương trình và giảng dạy theo kế hoạch đã định. Ví dụ: Các dạng toán điển hình như rút về đơn vị, giải toán liên quan đến yếu tố hình học, đại số Trong những đợt thao giảng, dự giờ của giáo viên ở trường và qua thăm các lớp khối 3 tôi nắm được chất lượng của học sinh, tôi nhận thấy việc dạy học dạng toán rút về đơn vị là hết sức cần thiết. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các con còn hạn chế về mặt suy luận, phân tích việc dạy “Toán rút về đơn vị ” góp phần giúp học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng quan sát, trí tưởng tượng cao và kỹ năng thực hành số học đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt môn toán ở các cấp học cao hơn. - Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán: Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: 3 * Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?..... Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. * Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. * Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong là khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 5 * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài. - Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán (sử dụng phương pháp hỏi đáp): + Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can). + Bài toán hỏi gì? ( mỗi can chứa bao nhiêu lít mật ong). + Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng: 7 can : 35 l mật ong 1 can : ... l mật ong ? - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán. - Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài. - Giáo viên đưa bài giải đối chiếu. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (l) Đáp số: 5 lít mật ong. - Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm mỗi can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? ( phép tính chia). - Giáo viên giới thiệu: Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong mỗi can, để tìm được số lít mật ong trong mỗi can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần bằng nhau. - Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như: Bài 1: Có 300 kg gạo chia đều vào 5 bao. Hỏi mỗi bao gạo như thế đựng được bao nhiêu ki - lô - gam gạo? + Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề toán và nêu miệng phần tóm tắt và giải bài toán: 7 - Học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (l) Số lít mật ong có trong hai can là: 5 x 2 = 10 (l) Đáp số:10 lít mật ong. - Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị ( Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.) - Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1: Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: + Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị (giá trị một phần trong các phần bằng nhau) - Thực hiện phép chia. + Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại (giá trị của nhiều phần bằng nhau) - Thực hiện phép nhân. - Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng. - Giáo viên ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích cách làm Bài 1: Có 45 kg ngô chia đều trong 3 túi. Hỏi với 8 túi như thế đựng được bao nhiêu ki-lô-gam ngô? Tóm tắt Bài giải 3 túi : 45 kg Số ki-lô-gam ngô có trong mỗi túi là: 8 túi : kg ngô? 45 : 3 = 15 ( kg) Số ki-lô-gam ngô có trong 8 túi là: 15 x 8 = 120 ( kg) Đáp số: 120 kg ngô Bài 2: Có 20 gói bánh đựng trong 4 thùng. Hỏi 12 thùng như thế đựng được bao nhiêu gói bánh? 9 Bước 1: ( Bước rút về đơn vị) : Tìm giá trị 1 đơn vị (Giá trị 1 phần). Thực hiện phép tính chia. Bước 2: Tìm nhiều đơn vị (từ 2 trở lên) . Thực hiện phép nhân. + Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị (nhiều phần). - Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2. - Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài : Để học sinh luyện tập tốt 2 kiểu bài này, tôi đã hướng dẫn các em so sánh các bước giải và nhận ra đặc điểm của mỗi kiểu bài: Các Kiểu bài 1 Kiểu bài 2 bước ( Tìm giá trị của các phần) ( Tìm số phần) 1 -Tìm giá trị của 1 phần: ( phép -Tìm giá trị của 1 phần: ( phép chia) (Đây là bước rút về đơn vị) chia) (Đây cũng là bước rút về đơn vị) 2 -Tìm giá trị của 1 phần -Tìm số phần. (phép nhân) (Phép chia) Lấy giá trị 1 phần nhân với số Lấy giá trị các phần chia cho giá phần trị 1 phần. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và giải các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song song với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau mỗi lần luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc các em không còn nhầm lẫn nữa. - Không nắm được cấu tạo số tự nhiên ( cách đặt tính) Trong lớp chủ nhiệm có một số em thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu 11
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_khac.docx