Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu - Kém môn Tiếng Anh

Nghị quyết Trung ương khóa VII của Đảng đã xác định phải “ khuyến khích tự học ”phải “áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề ”.

Nghị quyết TW 2 khóa VIII tiếp tục khẳng định “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền đạt một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh ”.

Luật giáo dục cũng nêu rõ trong điều 28.2 “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm hứng thú học tập cho học sinh ”.

Ngành Giáo dục Lệ Thủy đã và đang chỉ đạo một cách tích cực hướng tới sự hoàn thiện về đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện tốt cuộc vận động hai không với bốn nội dung của Ngành Giáo dục. Trong đó việc chống học sinh ngồi nhầm lớp đang là một vấn đề nóng bỏng và nan giải.

Với đối tượng học sinh yếu, đây quả là một bước đột phá đặc biệt hết sức quan trọng mà người giáo viên cần phải chuẩn bị hết sức kỹ càng công việc của mình, đòi hỏi nỗ lực không ngừng của những người làm ngành Giáo dục và của toàn xã hội.

Phương pháp nâng cao chất lượng cho học sinh yếu kém lại là một vấn đề hết sức thiết thực và quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và bộ môn Tiếng Anh nói riêng ở bậc THCS.

 

doc14 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 2460 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu - Kém môn Tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức các hoạt động học tập của học sinh, hoàn thiện các bước dạy theo hướng đổi mới chứ chưa thật sự chú trọng hướng dẫn cách học và thực hành cho đối tượng học sinh yếu kém. Giáo viên chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn còn chung chung với tất cả các đối tượng học sinh.
3. Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học.
 Với yêu cầu đổi mới giáo dục, cơ sở vật chất của nhà trường ngày càng được tăng trưởng nhanh. Song sự thiếu đồng bộ hóa trong các khối lớp học, góp phần ảnh hưởng đến sự tiếp thu bài của học sinh dẫn đến các em có sự chán nản, mệt mỏi cho các em.
Trang thiết bị được trang cấp khá đầy đủ nhằm phục vụ tối đa cho mục đích đổi mới dạy học và sách giáo khoa mới, sử dụng có hiệu quả những trang thiết bị trên trong giai đoạn đầu đổi mới còn khó khăn nhất là trang thiết bị nghe nhìn chưa được trang cấp đầy đủ, chưa mang tính đặc trưng của bộ môn như phòng nghe nhìn, băng đĩa, máy móc phục vụ dạy và học trên lớp.
4. Thực trạng đổi mới phương pháp học tiếng Anh tại đơn vị trường THCS Liên Thuỷ.
 Từ năm học 2002- 2003 thực hiện đổi mới giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo về cả nội dung và phương pháp, bản thân tôi đã chú trọng nhiều về phương pháp dạy học. Đặc biệt là phương pháp để nâng cao chất lượng cho học sinh yếu, kém.Tôi đã xây xựng kế hoạch phụ đạo học sinh yếu - kém dựa trên kế hoạch phụ đạo của trường và của phòng GD. Số lượng học sinh yếu - kém được tôi phân thành 3 loại: Trung bình - Yếu;Yếu;Yếu- kém; và tôi đã theo dõi cụ thể diễn biến của từng học sinh, số lượng học sinh tiến bộ ở cuối học kỳ I so với chỉ tiêu đề ra đầu năm. Song trong quá trình thực hiện việc đổi mới, chúng tôi vẫn còn lúng túng nên việc nâng cao chất lượng cho học sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao.
Vì vậy, chất lượng của học sinh khối 6,7 chưa được như mong muốn. Cuối năm 2006- 2007 chất lượng bộ môn Tiếng Anh của khối 6 được thể hiện về các kỹ năng nghe, đọc, viết, bởi các chỉ số như sau:
Lớp
Số lượng
HS yếu kém
Ngữ pháp
Viết
Đọc
Nghe
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
16
8
50,0
8
50,0
7
43,8
9
56,3
9
56,3
7
43,8
6
 37,5 
10
62,5
6B
15
8
53,3
7
46,7
8
53,3
7
46,7
10
66,7
5
33,3
9
 60,0 
6
40,0
6C
17
8
47,1
9
52,9
9
52,9
8
47,1
11
64,7
6
35,3
10
 58,8 
7
41,2
 Từ bảng thống kê chất lượng trên ta thấy tỉ lệ học sinh chưa nắm được kiến thức vận dụng còn yếu ở tất cả các kĩ năng nghe, đọc, viết  còn quá cao.Chứng tỏ học sinh chưa nắm được phương pháp học tập bộ môn, chưa vận dụng được kiến thức mà giáo viên đã hướng dẫn để chủ động sáng tạo thể hiện cái tôi của mình trong hoạt động giao tiếp. Mặt khác, hoàn cảnh gia đình các em chưa động viên thích đáng, hướng dẫn, định mức thời gian học cho các em.
Từ những thực tiễn cấp thiết trên tôi tìm tòi, suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng môn học cao hơn. Từ đó tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn Tiếng Anh ở trường THCS.
III. CáC BIệN PHáP THực hiện. 
1. Nắm đặc điểm tâm - sinh lý của học sinh.
Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi hết sức nhạy cảm thuộc vào giai đoạn giữa trẻ em và người lớn, không còn là trẻ em nhưng cũng chưa phải là người lớn, mà các em thích làm người lớn nhưng xử sự như là trẻ con, thích làm theo ý mình, thích cái lạ, thích bạn bè và bắt đầu cảm thấy chán bộ môn. Tôi nắm bắt được điểm này ở các em đặc biệt là những em yếu - kém. Do đó tôi đã thay đổi phương pháp học cho các em,vừa học vừa chơi, tạo cho các em không khí nhẹ nhàng thoải mái khi hoạt động nhóm, hoạt động cặp.Với những em có vẻ nhút nhát, chưa tự tin khi hoạt động tập thể , ngại nói tiếng Anh, sợ nói ra dễ bị sai, tôi hỏi học sinh bằng những câu hỏi dễ nhất để khuyến khích và động viên các em. 
Ví dụ: - gọi những học sinh này khi muốn kiểm tra nghĩa Tiếng Việt của từ đã học
nhắc lại từ, cụm từ hay câu mà các bạn hay cô giáo vừa mới nói xong
gọi học sinh sửa những lỗi đơn giản như: lỗi chính tả, 
Người giáo viên phải đặt cái “tâm” lên trên hết, bởi chỉ giỏi về chuyên môn thôi chưa đủ mà phải có đức như câu nói của Bác Hồ “ Người có tài mà không có đức là người vô dụng” . Do đó người giáo viên lên lớp phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, hết sức nhẹ nhàng, bình tĩnh, coi học sinh như là người con, người em trong gia đình, cùng trò chuyện tâm sự với các em vào giờ ra chơi và những lúc rảnh rỗi, tôi luôn dành tình cảm cho học sinh đặc biệt là những học sinh có hoàn cảnh khó khăn để các em hiểu rằng các em được chia sẽ và cảm thông, giúp các em tránh xa sự mặc cảm từ đó không ngừng phấn đấu vươn lên trong học tập. Tôi đã thực sự cảm thông, chia sẽ với các em, luôn mang trong mình tình cảm “Cô giáo như mẹ hiền”, phấn đấu suốt đời vì sự nghiệp dạy học “ Tất cả vì học sinh thân yêu”.
2. Đặt tên, phân chỗ ngồi cho học sinh yếu kém:
Đối tượng học sinh yếu luôn có những khía cạnh khác nhau: em thì vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, túng thiếu không đủ điều kiện cho việc học hành dẫn đến học kém, em thì do gia đình quá nuông chiều ít quan tâm đến việc học của các em dẫn đến các em chơi bời, lêu lỏng, không chú tâm vào việc học. Có em chăm học song vì thiếu sự đầu tư, chăm sóc, hướng dẫn từ các lớp dưới, dẫn đến mất gốc ...
 Trong quá trình dạy, tôi thường đặt cho học sinh những cái tên nhí nhảnh, khác nhau từ tên của một số loài trái cây, một số đồ vật, con vật hay màu sắc, vừa tạo không khí vui vẻ, nhẹ nhàng vừa giúp cho các em khắc sâu từ vựng, bằng cách đó các em nhớ được từ vựng mà không cần phải mất thời gian để học nhiều. 
Ví dụ: You are “an orange”; You are “a dog”; Your name is “red”; etc.
Chỗ ngồi của học sinh yếu - kém cũng là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Bởi lẽ khi đến lớp các em không những chỉ học ở thầy cô, mà còn phải học ở bạn rất nhiều, bạn bè chính là nơi để các em luyện tập, giao tiếp, trao đổi thông tin và cả những kiến thức đã lĩnh hội được từ thầy cô. Do đó bạn giao tiếp theo nhóm hay theo cặp phải là những đối tượng nhằm hỗ trợ hoạt động của các em,các em cùng thi đua với nhau theo từng nhóm hay cặp; hay là các em trở thành những đôi bạn cùng tiến, nhóm bạn cùng tiến
Ví dụ: Với đối tượng học sinh trung bình - yếu, các em sẽ được ngồi cạnh những học sinh giỏi của lớp; đối tượng học sinh yếu ngồi cạnh những em khá - giỏi, đối tượng học sinh kém được ngồi cạnh những em khá.
Tuy nhiên cũng theo đặc điểm tình hình học sinh yếu kém của từng lớp mà bố trí chỗ ngồi cho các em phù hợp với khả năng của từng em; tránh sự mặc cảm, tự ti về trình độ; nắm chắc vị trí chỗ ngồi của từng học sinh yếu - kém; thường xuyên kiểm tra, theo dõi sự tiến bộ của các em.
3. Dành sự quan tâm thích đáng đối với học sinh yếu kém ở trên lớp:
Đây là một hoạt động khá quan trọng và hết sức cần thiết nhằm nâng cao chất lượng bộ môn cho học sinh yếu kém. Từ trước đến nay mỗi một giáo viên khi lên lớp đều mong muốn được hướng dẫn hết những kiến thức cơ bản của bài học trong phạm vi của một tiết dạy nên phần lớn đều tập trung cho tất cả các đối tượng mà chưa dành sự quan tâm thích đáng đến đối tượng học sinh yếu kém. Bởi lẽ đối tượng này sẽ làm “ cháy” giáo án nếu chúng ta không biết vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp tổ chức hoạt động trong lớp cho các em.
Trong khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức bài học, ngoài việc kết hợp nhuần nhuyễn các đối tượng học sinh tôi còn đặc biệt chú ý đến sự tiếp thu của đối tượng học sinh yếu kém bằng cách nhấn mạnh, nói chậm rãi hay nhắc lại kiến thức cần lưu ý để đối tượng này dễ hiểu bài hơn.
Khi kiểm tra, đánh giá tôi cũng dành những câu hỏi dễ, gợi mở để giúp các em tự tin trả lời câu hỏi.
Khi sử dụng đồ dùng dạy học, tôi dùng tranh trái cây, đồ vật , con vậtđể học sinh đọc lên từ tiếng Anh. Ngoài tranh ảnh, cards, posters, băng, đài...tôi còn hướng dẫn cho các em làm một bảng phụ cá nhân. Chỉ bằng một tờ lịch hay một tấm bìa cũ có bao giấy trong ở ngoài, bài học sẽ trở nên rất hứng thú thông qua các trò chơi như “Bingo”, “Guessing”; hoặc tôi tổ chức cho các em làm bài tập trắc nghiệm qua trò chơi “ Rung chuông vàng” mà các em thường hay xem ở trên truyền hình. Bằng cách đó sẽ lôi cuốn được tất cả các đối tượng học sinh, đặc biệt là những em hằng ngày thường tỏ ra nhút nhát cũng tham gia rất sôi nổi.
Ví dụ: Unit 4 - English 7: Muốn khắc sâu những tính từ trong dạng câu “Compliments” từ sáu từ mới: delicious, interesting, bad, wet, great, bright. Tôi cho học sinh chọn bốn trong sáu từ trên, mỗi em viết vào bảng phụ của mình bốn từ đã chọn.Giáo viên đọc đáp án, học sinh nghe và đối chiếu kết quả của mình với đáp án. Học sinh nào đúng với đáp án thì giơ bảng phụ lên và hô to “Bingo”. Giáo viên dán những bảng phụ đúng lên bảng, học sinh dưới lớp dễ dàng đọc thấy đáp án để kiểm tra. 
 4. Dạy phụ đạo theo lịch của nhà trường:
 *Các nguyên tắc mà tôi đã dựa vào để có tiết dạy phụ đạo tốt:
-Giáo viên luôn soạn giáo án chu đáo, chuẩn bị đồ dùng kỹ lưỡng và phù hợp với nội dung bài soạn.
-Tạo sự tự do, thoải mái cho học sinh.
 (Đây là những buổi học mà học sinh yếu kém cảm thấy tự do trong khuôn phép, thoải mái nhất bởi xung quanh không còn đối tượng để mặc cảm. Do đó tôi đã vận dụng điểm này để cho các em luyện tập nội dung bài học một cách nhẹ nhàng).
-Củng cố kiến thức cơ bản các em đã được học ở các tiết trước hoặc kiến thức của lớp dưới mà các em bị hỏng.
-Đơn giản hoá nội dung bài tập và nâng độ khó từ từ một cách phù hợp với trình độ của các em.
-Luôn cho các em học theo nhóm, cặp để tạo sự phối hợp nhịp nhàng, đoàn kết và chắc chắn về kiến thức mà các em còn nhớ được.
-Bầu một cán sự bộ môn của lớp học phụ đạo (HS này là trợ lý đắc lực giúp tôi thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc làm bài tập ở nhà của các em, kiểm tra những nhiệm vụ mà giáo viên đã giao ở tiết trước. Kiểm tra việc chuẩn bị bài vở, SGK, SBT và cả việc ghi chép ở trên lớp).
-Khôn khéo, mềm dẻo nhưng cứng rắn, phải biết nói bằng “mắt” khi học sinh tỏ thái độ không nghe lời.
Những buổi học phụ đạo theo lịch của nhà trường là những buổi rất thuận lợi để tôi hướng dẫn phương pháp làm các dạng bài tập một cách cụ thể cho học sinh yếu kém. Mỗi lớp có hai tiết học liên tục trong một buổi, tôi dành hướng dẫn phương pháp làm mỗi dạng bài tập vào một buổi, buổi này hướng dẫn dạng bài tập ngữ pháp - từ vựng; buổi sau hướng dẫn dạng bài tập ngữ âm; trắc nghiệm; đọc hiểu; nghe hiểu; Khi đảm bảo HS đã nắm chắc kiến thức cơ bản tôi bắt đầu luyện bài tập tổng hợp theo tháng hoặc kỳ. Với mỗi dạng bài tập tôi hướng dẫn học sinh làm bài trình tự theo các bước: 
*Ví dụ: 
-Tôi ra dạng bài tập: Multiple choice
1. This is  new classmate.	(a. we	b. us	c. our)
2.  name is Hoa.	(a. she	b. her	c. hers)
3. We are  class 7a.	(a. on	b. in	c. at)
4. Hoa is  Hue.	(a. from	b. of	c. on)
5. Her parents still  there.	(a. lives	b. living.	c. live)
6. Hoa has  of friends in Hue.	(a. some	b. lots	c. lot)
7. Her new school is  than her old school.	(a. bigger	b. big	c. biggest)
 *Chỉ đẫn phương pháp làm bài theo yêu cầu của bài tập:
-Tôi hướng dẫn các em đọc đáp án và tập trung vào từ loại mà đáp án đề cập đến.
	+Câu 1, 2 đều có đáp án là đại từ chủ từ, đại từ túc từ, tính từ và đại từ sở hữu.
	+Câu 3, 4 đều có đáp án là giới từ
	+Câu 5 đáp án liên quan đến dạng của động từ.
	+Câu 6 đáp án là các tính từ số lượng.
	+Câu 7 đáp án có liên quan đến tính từ so sánh
*Gợi ý để học sinh làm - làm mẫu:
+Câu 1:
? Chổ trống này có cần chủ ngữ không	-Không. Chủ ngữ của câu là “This”.
? Vậy trước một cụm danh từ từ loại gì được dùng	-Tính từ. (Sẽ có em trả lời là “túc từ”)
-Cô giáo cần phải khẳng định ngay là dùng “Tính từ”
? Em hãy xác định đáp án của câu	
-Giáo viên sẽ nhận được có thể là cả ba đáp án, không phải là một. Việc các em quên từ loại về đại từ chủ từ, túc từ và tính từ sở hữu là dễ nhận thấy. Tôi đã chuẩn bị một “poster” với các từ loại này và cấu trúc câu có sử dụng chúng:	S + V + O/ S + V + adj +N/ S + be + adj
Đại từ chủ từ
Đại từ túc từ
Tính từ sở hữu
I
Me
My
He
Him
His
She
Her
Her
We
Us
Our
You
You
Your
They
Them
Their
It
It
Its
-Bây giờ thì học sinh dễ dàng để đọc đáp án của mình trước lớp. Nhiều buổi học và nhiều bài tập được sử dụng các từ loại tương tự sẽ làm cho các em nhớ điểm ngữ pháp và hiẻu bài hơn. 
-Giáo viên tiếp tục hướng dẫn các em chọn đáp án theo cách làm trên để các em tự tin và tiếp tục làm những câu còn lại của bài tập.
-Học sinh tự làm theo nhóm hoặc theo cặp, tự phân tích và cùng nhau chọn đáp án đúng.
-Kiểm tra và đánh giá: ở bước cuối cùng này, tôi cho học sinh tự đánh giá bài làm của bạn mình bằng cách chấm chéo bài với đáp án giáo viên đã chuẩn bị trước: 1.c, 2.b, 3.b, 4.a, 5.c, 6.b, 7.a. Làm như thế học sinh không những hứng thú hơn mỗi khi làm bài tập mà còn cảm thấy tự tin hơn khi được giáo viên giao nhiệm vụ. (Giáo viên có thể kiểm tra sự hiểu bài của các em với câu hỏi: Tại sao em chọn đáp án này?)
*Với bài tập ngữ âm: Hãy chọn một từ có cách phát âm của chữ gạch dưới khác những từ còn lại:
1. A. appliance B. amazing C. calendar
2. A. famous B. math C. equation
3. A. drawing B. author C. area
? Yêu cầu của bài tập này là gì.	
-Chọn từ có cách phát âm của chữ gạch dưới khác với những từ còn lại.
? Hãy đọc to từ của các đáp án (HS đọc to từ và nhận thấy âm được đọc khác biệt với những âm còn lại. Đáp án:1.c, 2.b, 3.c)
Cũng tương tự như thế với một bài tập từ vựng: Hãy tìm một từ sai trong ba từ, và sửa lại trong ngoặc trống.
1. A. area B. horible C. favorite (B. horrible)
2. A. phisycal B. appear C. summer (A. physical)
3. A. accident B. ahead C. apertment (C. apartment)
Học sinh xem qua bài tập và cho biết yêu cầu của bài tập này làm gì, HS trả lời là phải tìm một từ sai chính tả trong ba từ A; B hoặc C. Vậy câu 1 các em hãy nhận biết xem từ nào sai chính tả? Có em chọn A, có em chọn B, có em lại chọn C. Tôi hỏi: Tại sao các em chọn B? Trò trả lời từ đúng B phải là “ horrible”. Tôi đồng ý: OK; rồi viết từ đúng vào ô trống ở cuối câu. Tương tự học sinh làm theo nhóm câu 2 và 3. Tôi kiểm tra và đưa ra đáp án 2. A. physical; 3. C. apartment. Sau đó từng nhóm đổi chéo bài, chấm điểm.
 4. Củng cố và hướng dẫn phương pháp làm bài tập về nhà cho học sinh yếu kém: 
Đây là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết bởi sau một tiết học các em cần biết mình đã học được những gì. phải học và vận dụng những kiến thức cơ bản nào vào bài tập, cách làm bài tập trong sách bài tập như thế nào. Đối với học sinh yếu kém hoạt động này đòi hỏi phải có sự cụ thể và tỉ mỉ hơn.
Ví dụ: Yêu cầu học sinh mở SBT ( trang 16 - 17), đọc và nêu yêu cầu của bài tập, giáo viên hướng dẫn cách làm bài tập với hình thức so sánh hơn và hơn nhất của những tính từ trong ngoặc. Gợi ý làm mẫu từ 1 đến 2 câu.
Bài tập 2 (a): Fruit is ................ candy. ( good) 
Đối tượng làm bài là HS yếu kém cho nên với câu bài tập trên tôi thêm từ “ than” vào, 
Fruit is ............. than candy. ( good) ; 
? Điểm ngữ pháp của bài tập này là gì. 
- Hình thức so sánh hơn. (có em nói là hình thức so sánh hơn nhất.) 
? Tại sao em biết dó là hình thức so sánh hơn.
- Có sử dụng “than” ở trong câu. “
? Thế hình thức so sánh hơn nhất có đúng không
- Không đúng. 
GV khẳng định điểm ngữ pháp của câu trên là so sánh hơn nhờ có “than” ở trong câu. 
Em hãy cấu tạo hình thức so sánh hơn “ good” 	- “better”.
 Đáp án của câu trên sẽ là: 	Fruit is better than candy.
*Dạng bài tập chia động từ trong ngoặc 
 1. He (go) . to the zoo yesterday. 
 2. Lan (go)  to school every day.
3. They (have) .. a party tonight.
4. The students (visit)  their old teacher next week?
5. She (not eat) .. bread for breakfast now.
6. My mother (read)  books after dinner.
? Thời động từ nào được dùng ở câu 1	- hiện tại đơn, quá khứ đơn
-Các câu trả lời trên các em suy nghĩ và xác định bằng kiến thức mà các em nhớ được. Tuy nhiên giáo viên có thể khẳng định “quá khứ đơn” để tiếp tục gợi mở hướng các em tới câu trả lời đúng
? Tại sao em biết dó là thì quá khứ đơn. 
-HS nhận ra được là có dấu hiệu nhận biết “yesterday” ở trong câu. 
? Thế thì hiện tại đơn có đúng không?”. (GV vừa đưa ra các dấu hiệu cụm thời gian của hiện tại đơn: always, often,  every day, every time ) 
-HS sẽ thấy được đáp án đúng là quá khứ đơn.
? Em hãy chia động từ “go”	-went
 -He went to the zoo yesterday.
Trên đây chỉ đơn cử một vài ví dụ về dạng bài tập và phương pháp gợi mở, dẫn dắt các em vận dụng kiến thức cơ bản vào thực hành và giao tiếp.
Dạy học là một nghệ thuật, các cách thức tổ chức dạy học trên lớp chỉ có thể là một nghệ thuật khi nó được tiến hành dưới sự điều khiển tài nghệ của GV. Làm tốt các hình thức trên học sinh sẽ được tiếp thu một cách có hiệu quả. 
Sau khi áp dụng các phương pháp trên tôi tiến hành kiểm tra lại chất lượng học sinh. Kết quả chất lượng thể hiện qua bảng số khảo sát khối lớp 7 kỳ II năm học 2007-2008 như sau:
Lớp
Số lượng
HS yếu kém
Ngữ pháp
Viết
Đọc
Nghe
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
Nắm được kiến thức vận dụng khá
Chưa nắm được kiến thức vận dụng yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7A
16
11
68,8
5
31,2
13
81,3
3
18,7
14
87,5
2
12,5
13
81,3
3
18,7
7B
15
10
66,7
5
33,3
12
80,0
3
20,0
13
86,7
2
13,3
10
66,7
5
33,3
7C
17
12
70,6
5
29,4
15
88,2
2
11,8
14
82,4
3
17,6
14
82,4
3
17,6
Như vậy cả năm học lớp 6 và cho đến cuối kỳ II lớp 7, sự hướng dẫn cẩn thận về phương pháp học cho đối tượng học sinh yếu, tôi nhận thấy, chất lượng học tập của các em đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các em nắm được nhiều từ mới, từ đó ngữ pháp chắc hơn, cách phát âm chuẩn hơn, phương pháp nghe đã có sự chuyển biến, các em tiếp thu bài nhanh hơn, luôn hứng thú và thích hoạt động trong mỗi tiết học, chủ động hơn trong mọi hoạt động của mình và đặc biệt giao tiếp tiếng Anh của các em không còn rụt rè như trước nữa.
IV. KếT LUậN
Việc học tập bộ môn Tiếng Anh để rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết là công việc lâu dài vất vả, khó nhọc đối với học sinh nhất là học sinh ở các lớp đầu bậc học THCS. Do vậy người giáo viên ngoài nhiệm vụ truyền đạt kiến thức còn phải tìm cách làm cho giờ học trở nên hấp dãn, thú vị nhằm thu hút các em hứng thú hăng say học tập. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp học ở trên lớp và tự học ở nhà có hiệu quả là điều quan trọng nhất. Đặc biệt là phương pháp học cho đối tượng học sinh yếu trong thời điểm cả ngành giáo dục đang thực hiện cuộc cách mạng “Hai không” là vô cùng cần thiết và cấp bách bởi lẽ không để cho học sinh ngồi nhầm lớp tức là các em được trang bị đầy đủ kiến thức cơ bản, tự tìm tòi sáng tạo nâng cao kiến thức của mình, hình thành thói quen làm việc độc lập tự chủ dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của giáo viên, đồng thời học sinh có khả năng hợp tác làm việc với bạn bè nhằm đáp ứng yêu cầu của bài học. Đây chính là nền tảng để xây dựng tác phong làm việc của thế hệ người Việt nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thời kỳ hội nhập hiện nay.
 Là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi luôn mong muốn mang đến cho học sinh của mình những giờ học thực sự hấp dẫn và lôi cuốn, tạo mọi điều kiện cho các em học thật tốt từ đó nâng cao chất lượng học tập và kết quả bộ môn ngày càng cao hơn. Với kinh nghiệm và khả năng còn có hạn này chắc chắn các bạn đồng nghiệp sẽ rất hài lòng khi tiếp nhận nó, đóng góp thêm và cùng nhau thực hiện mục đích đẩy lùi việc đánh giá học sinh không chính xác dẫn đến học sinh ngồi nhầm chỗ , góp một phần sức lực nhỏ bé của mình thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không “của Bộ Giáo dục và Đào tạo để “ Ngôi nhà giáo dục mãi mãi vươn cao”.
 Lệ Thủy, ngày 10 tháng 5 năm 2008
 Người thực hiện 
 Phạm Thị Hạnh

File đính kèm:

  • docTieng anh_Nang cao chat luong HS yeu kem_Pham Thi Hanh_THCS Lien Thuy.doc
Sáng Kiến Liên Quan