Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo đổi mới và nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở tổ chuyên môn 4+5
Điều 14, Điều lệ Trường Tiểu học (2007) đã quy định: “Học sinh được tổ chức theo lớp học. Lớp học có lớp trưởng, lớp phó do tập thể học sinh bầu ra hoặc do giáo viên chủ nhiệm chỉ định luân phiên; Mỗi lớp học có một giáo viên chủ nhiệm phụ trách giảng dạy một hoặc nhiều môn học; Mỗi lớp học được chia thành nhiều tổ học sinh, mỗi tổ có tổ trưởng, tổ phó do học sinh trong tổ bầu ra hoặc do giáo viên chủ nhiệm chỉ định luân phiên trong năm học.”.
Trong các trường tiểu học nói chung, giáo viên dạy văn hoá (nhiều môn) thường kiêm luôn làm giáo viên chủ nhiệm, vì vậy giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục tri thức và nhân cách cho học sinh. Tuy nhiên trong những năm gần đây, về lý luận cũng như trên thực tế chưa có những nghiên cứu cụ thể, đầy đủ và đổi mới để tạo ra sự định hướng thống nhất trong chỉ đạo và thực hiện cho công tác chủ nhiệm ở trường tiểu học. Bên cạnh đó, công tác chủ nhiệm phần nào bị sao nhãng, bị “lạc hậu hoá” do các giáo viên và các tập thể nhà trường tập trung vào công tác đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp và hình thức dạy-học. Ngoài ra, ở bậc tiểu học, việc làm công tác chủ nhiệm của các giáo viên văn hoá gần như là đương nhiên, không được tính theo tiết (để có chế độ, chính sách thoả đáng) như các giáo viên tiểu học khác (VD: giáo viên chuyên một môn: Âm nhạc - Mĩ thuật - Thể dục, giáo viên Đoàn - Đội, giáo viên dự trữ.) hoặc như giáo viên trung học cơ sở. Từ đó làm cho hiệu quả của công tác chủ nhiệm, cũng như hiệu quả của quá trình giáo dục toàn diện học sinh trong nhà trường tiểu học chưa đạt được theo yêu cầu.
Ở các trường học vùng dân tộc thiểu số, các em học sinh thường rụt rè, nhút nhát, ngại giao tiếp, khả năng Tiếng Viết hạn chế. thì công tác chủ nhiệm lại càng được đặt lên hàng đầu. Đơn giản là vì: thầy cô có hiểu được các em, có gần gũi với các em, có phối hợp được các lực lượng giáo dục khác. mới dạy tốt và đánh giá chính xác được từng đối tượng học sinh cụ thể.
có phương hướng tổ chức hoạt động giáo dục, dạy học phù hợp với điều kiện, khả năng của mỗi học sinh. Muốn thực hiện chức năng quản lý giáo dục toàn diện, giáo viên chủ nhiệm phải có những trí thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và phải có hàng loạt kỹ năng sư phạm như: kỹ năng tiếp cận đối tượng học sinh, kỹ năng nghiên cứu tâm lý lứa tuổi, xã hội, kỹ năng đánh giá, kỹ năng lập kế hoạch chủ nhiệm lớp và phải có nhạy cảm sư phạm để có dự đoán đúng, chính xác sự phát triển nhân cách của học sinh ..., định hướng và giúp các em lường trước những khó khăn, thuận lợi, vạch ra những dự định để chúng tự hoàn thiện về mọi mặt. Hai là, giáo viên chủ nhiệm là người tố chức tập thể học sinh tự quản nhằm phát huy tiềm năng tích cực của mọi học sinh. Đây là một đặc điểm riêng biệt của GVCN mà các giáo viên khác (GV chuyên, Đoàn Đội, Dự trữ...) không có. Giáo viên chủ nhiệm cần lưu ý xây dựng đội ngũ tự quản xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng năm học và tính chất phát triển của từng tập thể học sinh. Nhiều giáo viên chủ nhiệm chỉ căn cứ vào một số tiêu chuẩn cán bộ lớp như: học giỏi, đạo đức tốt... mà ít để ý đến các yếu tố quan trọng khác như: có uy tín với bạn bè, biết quan tâm đến người khác, gương mẫu, biết cảm hóa các bạn... Để phát huy tốt vai trò của người tổ chức, người giáo viên chủ nhiệm cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của học sinh trong lớp, phải biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em. GVCN là người giúp HS tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hoá, nhưng không được khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập thể học sinh lớp học mà nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp đỡ các em tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động, đặc biệt là trong các hoạt động học tập. Ba là, giáo viên chủ nhiệm lớp là chiếc cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục. GVCN là nhà quản lý, nhà sư phạm, đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt những yêu cầu đối với học sinh, với phương pháp thuyết phục, thái độ nghiêm túc để mỗi học sinh và tập thể lớp ý thức đầy đủ trách nhiệm phải tuân thủ, tự giác thực hiện. GVCN cũng là người đại diện cho quyền lợi chính đáng của học sinh trong lớp, bảo vệ học sinh về mọi mặt một cách hợp lý, phản ánh với Hiệu trưởng, với các giáo viên khác (nếu có), với gia đình và đoàn thể trong hoặc ngoài nhà trường về nguyện vọng chính đáng của học sinh, để có giải pháp giải quyết phù hợp, kịp thời, có tác dụng giáo dục. Huy động có hiệu quả tiềm năng của xã hội vào giáo dục là công việc không đơn giản, đòi hỏi GVCN lớp chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề nghiệp, yêu thương học sinh mà còn đòi hỏi GVCN là một nhà hoạt động xã hội, có hiểu biết rộng, biết vận động quần chúng, có năng lực thực hiện các mục tiêu, nội dung giáo dục. GVCN phải là người có trí tuệ, có lương tâm, có uy tín, sống mẫu mực, biết tự kiềm chế, có ý chí vượt khó, kiên định thực hiện hoài bão, ước mơ, lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ. Bốn là, giáo viên chủ nhiệm phải là người đánh giá khách quan kết quả học tập, rèn luyện của mỗi học sinh và phong trào chung của lớp. Đây là một công việc rất quan trọng của GVCN đối với quá trình học tập, rèn luyện, phát triển nhân cách của mỗi học sinh, vì sự đánh giá khách quan, chính xác, đúng mực là một điều kiện để thầy – trò điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch... cho các hoạt động của cả lớp và mỗi thành viên. GVCN cần tránh cách nhìn thiên vị và chỉ chú ý đến một số nội dung nhất định. Khi đánh giá từng cá nhân học sinh nên căn cứ vào năng lực, điều kiện cụ thể của từng em, cần tránh quan điểm khắt khe, định kiến, thiếu quan điểm động và phát triển, nhất là đối với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, có đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt... thì GVCN cần tham khảo. Điều quan trọng là sau khi đánh giá, cần nêu ra những yêu cầu với thái độ nghiêm túc, tôn trọng nhân cách học sinh và với tấm lòng thương yêu các em như con em mình. Yêu cầu của GVCN đặt ra phải được học sinh tự giác chấp nhận, phải có nỗ lực, vượt khó, có quyết tâm thực hiện, khi đó mục tiêu mới đạt được. Chương II – Cơ sở thực tế 1. Vấn đề giáo viên chủ nhiệm nắm vững mục tiêu giáo dục của cấp học, lớp học và chương trình dạy học, giáo dục của nhà trường. Đội ngũ GV trong Tổ CM đều đạt trình độ trên chuẩn, có khả năng dạy học tốt lớp phụ trách. Tuy nhiên, đa số GV đều chỉ nắm vững mục tiêu, chương trình lớp mình dạy, một số ít (tổ trưởng, tổ phó) thì biết thêm về nội dung chương trình hai khối lớp 4 và 5. Còn hiểu biết về mục tiêu, chương trình xuyên suốt cấp học vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ tới việc tìm hiểu HS, việc GV xây dựng kế hoạch chiến lược trong quá trình giáo dục toàn diện các HS trong lớp. 2. Ý thức của giáo viên chủ nhiệm trong việc tìm hiểu để nắm vững cơ cấu tổ chức của nhà trường, tham gia vào quá trình tự quản lý. Mọi GV trong tổ đều xác định nhiệm vụ hàng đầu của mình là hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy lớp được phân công. Một số GV được giao thêm các công tác kiêm nhiệm. Tuy nhiên, các thầy cô giáo mới chỉ coi trọng việc hoàn thành nhiệm vụ cá nhân, chưa phát huy hết khả năng của bản thân trong việc tìm hiểu và xây dựng các thể chế, cơ cấu của các tổ chức trong nhà trường. Do vậy, hầu hết các GV đều coi công tác chủ nhiệm là việc riêng của từng người, chưa đặt việc quản lý toàn diện HS trong lớp là một phần không thể tách rời trong quá trình quản lý và tự quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường của các thành viên trong Hội đồng giáo dục. Đây có thể coi là một điểm yếu không chỉ của đội ngũ GVCN Tổ 4+5 của nhà trường, mà còn ở diện rộng hơn. 3. Khả năng nghiên cứu và phân tích mọi đặc điểm của học sinh trong lớp chủ nhiệm, tìm hiểu các yếu tố tác động đến các em như: đặc điểm tâm sinh lý, năng lực cá nhân, hoàn cảnh gia đình, sự quan tâm của người thân đối với con em của họ. Theo các quy định của ngành giáo dục hiện nay, GVCN chỉ cần hoàn thành Sổ chủ nhiệm là có thể được coi là hoàn thành nhiệm vụ chủ nhiệm lớp. Việc xây dựng được Sổ chủ nhiệm, theo lý thuyết là một công việc rất nhiều công sức và tinh thần trách nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế, các GV chủ yếu là sao chép (có bổ sung) từ lớp dưới, nếu có điều chỉnh lớn thì phần nhiều là do có sự kiểm tra, chỉ đạo của Hiệu trưởng nhà trường. Điều này làm cho bản chất của công tác chủ nhiệm giảm đi tính giáo dục và thực chất. 4. Việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn; tự hoàn thiện phẩm chất nhân cách của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Việc tự học, tự bồi dưỡng của GV có nhiều tiến bộ. Các thầy cô giáo đều tham gia các lớp đào tạo lại để nâng cao chuẩn đào tạo. Mỗi thầy cô đều cố gắng là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học. Tuy nhiên, để đạt các yêu cầu về Chuẩn nghề nghiệp GVTH trong thời kỳ mới, sự phấn đấu nỗ lực của từng GV vẫn là những con đường dài ở phía trước. Chương III – Những thuận lợi và khó khăn cơ bản khi triển khai I – Thuận lợi: Các thành viên trong tổ hết sức ủng hộ và cam kết thực hiện thường xuyên, cập nhật kết quả định kỳ. Trao đổi thẳng thắn về tất cả các nội dung của đề tài đã đề cập, thảo luận dân chủ và rút kinh nghiệm. II – Khó khăn: Nội dung đề tài xác lập tương đối khó, tuy không mới nhưng không có chuẩn mực cho mọi giáo viên chủ nhiệm, cho mọi lớp, mọi nhà trường và mọi vùng miền. Việc áp dụng và đánh giá kết quả của đề tài cần được nhìn nhận trên tính toàn diện, tính ổn định và mang định hướng lâu dài. Chương IV – Một số biện pháp chỉ đạo đổi mới và nâng cao chất lượng các nội dung công tác chủ nhiệm lớp: 1. Tìm hiểu, phân loại học sinh lớp chủ nhiệm: 1.1. Tìm hiểu hoàn cảnh sống của từng học sinh: Tuổi tác, trình độ văm hoá, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của bố mẹ, gia đình đông con hay ít con, sự quan tâm tới phương pháp giáo dục con cái của bố mẹ; sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, điều kiện sinh hoạt vật chất (đầy đủ hay túng thiếu...), điều kiện sinh hoạt tinh thần (các phương tiện sinh hoạt văn hoá, tình cảm gia đình...), quan hệ giữa gia đình học sinh với hàng xóm trong bản, trong xã... 1.2. Tìm hiểu những đặc điểm về thể chất, sinh lý của từng học sinh: Thể lực (chiều cao, cân nặng...), sức khoẻ (khỏe-yếu, vóc dáng bình thường hay có khuyết tật...). 1.3. Tìm hiểu những đặc điểm về tâm lý của mỗi học sinh: Khả năng nhận thức, tư duy ở mỗi em (thông minh, nhanh nhẹn hay bình thường hay chậm...) trong học tập, vui chơi, giao tiếp; tác phong, sở thích, nhu cầu; tính tình trong hoạt động cá nhân và tập thể (cẩn thận, chín chắn hay cẩu thả, bồng bột, hiền lành hay nóng nảy...) 1.4. Tìm hiểu tính cách và những hành vi đạo đức của từng học sinh: Thể hiện ở tính chăm học hay lười học, mạnh dạn hay nhút nhát, nhân hậu hay ích kỷ, tự lập hay ỷ lại...Đặc biệt cần quan tâm đến thái độ, cách ứng xử với các bạn, với thầy cô, với người thân trong gia đình; sở thích và năng khiếu nổi bật của từng em... 2. Xây dựng tập thể học sinh trong lớp đạt tiêu chí “Sao tự quản”: 2.1. GVCN phải tổ chức “bộ máy tự quản” của lớp: Bao gồm: Lớp trưởng, lớp phó, các tổ trưởng, Đội Cờ đỏ của lớp... 2.2. Quy định rõ chức năng nhiệm vụ (giao việc), hướng dẫn các nội dung ghi chép sổ theo dõi cho từng cán bộ “tự quản”. 2.3. Giáo viên chủ nhiệm tự lập kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tự quản xuyên suốt năm học. 3. Tổ chức thực hiện các nội dung giáo dục toàn diện: 3.1. Giáo dục đạo đức, pháp luật và nhân văn cho học sinh: Tổ chức thi đua học tập, rèn luyện trong học sinh, có kiểm tra, đánh giá, tuyên dương, khen thưởng cá nhân, nhóm, tổ trong hàng tuần, hàng tháng, học kỳ, năm học; Hoạt động theo chủ đề về chính trị-xã hội (tuỳ theo từng thời điểm và tình hình của lớp, của trường, của địa phương, đất nước và thế giới...), hoạt động kết nghĩa, hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, chào mừng các sự kiện chính trị xã hội trong nước và trên thế giới... 3.2. Tổ chức các hoạt động học tập nhằm phát triển nhận thức, trí tuệ của học sinh: Thông qua tập thể lớp, GVCN đề ra những yêu cầu học tập đối với các em, xây dựng suy nghĩ tập thể lành mạnh, giúp các em xác định nghĩa vụ, thái độ, động cơ học tập đúng đắn...Hướng dẫn cán bộ lớp tổ chức các nhóm học tập, ví dụ như: Đôi bạn cùng tiến, Em yêu Toán, Câu lạc bộ Tiếng Việt...Phân tích nguyên nhân học sinh học yếu kém để giúp đỡ, tổ chức phụ đạo hàng tuần (1 – 2 buổi) với các hình thức khác nhau: theo lớp, nhóm hay từng cá nhân... 3.3. Tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể dục, vui chơi: Thường xuyên tổ chức cho cả lớp các trò chơi, các động tác thể dục-thể thao, xem phim tập thể, dịch các bài hát ra tiếng địa phương... 4. Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh: 4.1. Kết hợp với các lực lượng trong trường: +Tổ chức Đội: Để giáo dục học sinh của lớp cần có kế hoạch kết hợp với tổ chức Đội TNTP Hồ Chí Minh để tiến hành các hoạt động giáo dục toàn diện, GVCN cần giúp đỡ chi đội của lớp xây dựng kế hoạch, bồi dưỡng cán bộ Đội... Điều quan trọng là GVCN phải giúp đỡ tổ chức Đội chứ không phải là áp đặt. +Các giáo viên khác: Trao đổi với các giáo viên chuyên (nếu có), với các giáo viên dạy cùng tổ, cùng dãy phòng (lớp) học, cùng điểm trường... về tình hình học sinh trong lớp, hoặc tìm hiểu các thông tin khác về học sinh khá giỏi, học sinh yếu kém, hay học sinh có hoàn cảnh khó khăn... +Hiệu trưởng (Hiệu phó): GVCN là người thừa lệnh Hiệu trưởng – thay mặt nhà trường để tổ chức quản lý, giáo dục học sinh một lớp. Để giáo dục học sinh lớp mình phụ trách, GVCN phải dựa vào kế hoạch chung của trường, đồng thời dựa vào tình hình cụ thể của lớp để xây dựng kế hoạch, đề ra các biện pháp giáo dục học sinh lớp mình; thường xuyên báo cáo tình hình của lớp, kết quả giáo dục; ý chí, nguyện vọng của học sinh lớp mình; thỉnh thị, đề xuất, xin ý kiến về biện pháp giáo dục và đề nghị Hiệu trưởng cùng phối hợp và thống nhất tác động sư phạm đối với cả lớp hoặc từng học sinh. Chẳng hạn, GVCN đề nghị nhà trường về việc khen thưởng hay phê bình HS; đề xuất nội dung, hình thức và tạo điều kiện, phương tiện để thực hiện các nội dung hoạt động trong lớp... +Với các lực lượng khác (nếu có): Cần phối hợp với các lực lượng như: bảo vệ, văn thư, thư viện, y tế nhà trường ...để giáo dục học sinh. GVCN cần đề xuất yêu cầu và đề nghị họ cùng thống nhất biện pháp tác động sư phạm đối với học sinh khi cần thiết. 4.2. Liên kết với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường: +Liên kết với gia đình: GVCN có kế hoạch định kỳ thông báo cho gia đình học sinh biết kết quả học tập, tu dưỡng của con em họ. Ngược lại gia đình cũng thông tin kịp thời cho GVCN biết về những thay đổi tích cực hoặc không tích cực của học sinh ở nhà, ở cộng đồng...để động viên khuyến khích hay nhắc nhở kịp thời...GVCN cùng gia đình phải thường xuyên tự điều chỉnh và hoàn thiện việc liên kết giáo dục học sinh, được thực hiện bằng nhiều cách như: Họp cha mẹ học sinh; Qua Ban đại diện CMHS hay cán bộ lớp; Thăm hỏi trực tiếp gia đình học sinh; Mời cha mẹ học sinh đến trường trao đổi trực tiếp; Hoặc trao đổi qua điện thoại (nếu có), qua thư tay... +Liên kết với chính quyền địa phương: Thực chất đây là sự liên kết giáo dục giữa nhà trường với xã hội. Các lực lượng xã hội bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng... Việc liên kết giáo dục cần hướng vào các nội dung sau: Tổ chức việc học tập, vui chơi, rèn luyện...nhằm hình thành tri thức xã hội và nhân cách học sinh; Bảo vệ trật tự, bảo vệ cơ sở vật chất trường lớp; Tạo điều kiện mọi mặt cho các hoạt động giáo dục của lớp, của trường... 5. Đánh giá kết quả giáo dục học sinh: Cần khẳng định rằng: đánh giá kết quả giáo dục học sinh là một trong những nội dung lớn và hết sức quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp.Bởi lẽ nó không chỉ phản ánh kết quả giáo dục học sinh mà còn phản ánh nội dung, phương pháp giáo dục của các lực lượng giáo dục nói chung, của GVCN nói riêng. Đánh giá đúng sẽ là một động lực giúp học sinh nỗ lực phấn đấu, phát huy những ưu điểm, sẽ khích lệ động viên học sinh vươn lên. Nói cách khác, sự đánh giá đúng và mang tính giáo dục sẽ mang lại kết quả giáo dục. Ngược lại, sự đánh giá không đúng, không khách quan đối với học sinh sẽ đưa lại hậu quả xấu - phản giáo dục. Hậu quả này không lường trước được, không đo đếm được. Người GVCN ngoài việc cần nắm vững các văn bản hướng dẫn về đánh giá học sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo, còn cần quan tâm đến các khía cạnh đánh giá học sinh đảm bảo tính toàn diện, tính phát triển và tính giáo dục sâu sắc, đảm bảo tổ chức cho học sinh được tham gia vào quá trình tự đánh giá: +Đối với công việc: đánh giá tinh thần tự giác, tích cực học tập, tinh thần trách nhiệm và quan tâm đến hiệu quả học tập; tham gia lao động và các hoạt động tập thể. +Đối với mọi người và xã hội: đánh giá lòng nhân ái, vị tha, hướng thiện, đoàn kết giúp đỡ bạn bè, kính trọng người lớn, bảo vệ của công, bảo vệ môi trường, có ý thức cộng đồng và hợp tác. +Đối với bản thân: đánh giá ý thức trách nhiệm với bản thân qua cách ăn mặc, nói năng, bước đầu có hoài bão, có ước mơ... Chương V: Những kết quả giáo dục toàn diện bước đầu trong công tác chủ nhiệm ở khối 4+5: 1. Kết quả giáo dục cuối năm học 2006-2007: (đối chứng) Khối lớp Kết quả các môn học (Trung bình trở lên) Hạnh kiểm (THĐĐ) Khen thưởng (HSG, HSTT) Ghi chú TV Toán Khoa Sử-Địa Đạo đức Kĩ thuật Âm nhạc Mĩ thuật Thể dục 4 90% 94% 98% 95% 97% 98% 93% 98% 98% 90% 10% 5 94% 95% 96% 94% 96% 100% 94% 95% 96% 92% 8% 2. Kết quả giáo dục cuối năm học 2007-2008: (sản phẩm) Khối lớp Kết quả các môn học (Trung bình trở lên) Hạnh kiểm (THĐĐ) Khen thưởng (HSG, HSTT Ghi chú TV Toán Khoa Sử-Địa Đạo đức Kĩ thuật Âm nhạc Mĩ thuật Thể dục 4 95% 98% 98% 96% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 20% Lớp tiên tiến 5 98% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 18% Lớp tiên tiến Chương VI – Bài học kinh nghiệm Học sinh tiểu học tồn tại với tư cách là đối tượng giáo dục, đồng thời cũng là chủ thể giáo dục. Để giáo dục các em có kết quả tốt, GVCN phải hiểu các em một cách đúng đắn, đầy đủ và cụ thể, từ đó lựa chọn những tác động sư phạm thích hợp. Trái lại, thực tiễn giáo dục cho thấy nếu không hiểu rõ HS thì những tác động sư phạm được lựa chọn sẽ không phù hợp, do đó không cho kết quả mong muốn, thậm chí thất bại. Muốn tổ chức tốt công tác giáo dục HS, GVCN phải chăm lo tổ chức, xây dựng lớp thành một tập thể yêu thương nhau, biết tự quản lẫn nhau bằng tình cảm hồn nhiên, ngây thơ của trẻ. Bởi lẽ tập thể lớp chính là môi trường, là phương tiện trực tiếp tác động tới sự phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt nói riêng, tài năng và nhân cách nói chung của HS. Vì vậy, GVCN phải phối hợp với các lực lượng giáo dục, xây dựng lớp mình phụ trách thành một tập thể tiến bộ, biết tự quản, biết tự đánh giá... Khác với GV chuyên, GV Đoàn-Đội, GV dự trữ... GVCN phải tổ chức, quản lý, giáo dục HS hàng tuần, hàng tháng và tham gia tổ chức các hoạt động chung toàn trường. Cần nhớ rằng, chỉ có thông qua các hoạt động mới rèn luyện, hình thành và phát triển các kỹ năng tổ chức, giao tiếp, sự sáng tạo cho HS; giúp các em tạo ra được tình cảm bạn bè, tình thầy trò, lòng nhân ái, tình yêu thiên nhiên, ý thức công dân... sâu sắc. C – PHẦN KẾT LUẬN 1. Đánh giá sơ bộ về nội dung và kết quả đề tài: Nội dung đề tài đã xác định rõ hơn vị trí, vai trò, nhiệm vụ của người GVCN trong các trường tiểu học hiện nay. Đồng thời, đề tài cũng đề cập đến vấn đề đổi mới công tác chủ nhiệm cũng như vấn đề chỉ đạo của các nhà trường về công việc này. Kết quả đề tài đã giúp GVCN biết những việc cần làm ngay, những việc nằm trong chiến lược dạy học cá nhân và cách làm của từng việc cụ thể; giúp cán bộ quản lý các nhà trường có thêm tư liệu chỉ đạo thống nhất về công tác chủ nhiệm trong thời kỳ phát triển mới. 2. Đề xuất kiến nghị: -Với Phòng GD&ĐT huyện: Cần tổ chức thường xuyên các hội thảo, chuyên đề về công tác chủ nhiệm lớp. Hỗ trợ kinh phí để các nhà trường mua tài liệu, mua sắm vật phẩm phục vụ cho công tác chủ nhiệm lớp. -Với nhà trường: Tổ chức triển khai đề tài trên diện rộng (tất cả các lớp trong trường); phối hợp với Ban đại diện cha mẹ HS triển khai các hoạt động có liên quan tới công tác của GVCN. -Với Tổ Chuyên môn khối 4+5: Tiếp tục thực hiện các nội dung đề tài, bổ sung các điều chỉnh, kiến nghị phát sinh, giúp cho đề tài có thêm các cơ sở thực tế để hoàn thiện hơn. 3. Hướng nghiên cứu tiếp theo: Trên cơ sở xây dựng được mối quan hệ dạy và học tốt đẹp giữa GVCN và HS trong lớp, giữa GV với gia đình HS, với cộng đồng; chúng tôi sẽ nghiên cứu sâu hơn quá trình tương tác GV - HS trong quá trình lên lớp, mối liên hệ giữa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; đồng thời đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo để nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ GV trong nhà trường trong thời kỳ mới. Phổng Lái, ngày 25 tháng 05 năm 2008 Người viết Nguyễn Hữu Hải TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật Giáo dục 2005; Điều lệ Trường tiểu học 2007; Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học; “Phương pháp nghiên cứu khoa học” – Mai Ngọc Luông, Lý Minh Tiên - Nhà xuất bản Giáo dục 2006; “Công tác quản lý học sinh ở trường phổ thông” – Hà Nhật Thăng - Nhà xuất bản Giáo dục 2006; Giáo trình đào tạo GVTH trình độ Đại học (nhiều tác giả) – Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội 2005; Tài liệu “Đào tạo Cử nhân Hiệu trường trường tiểu học” (nhiều tác giả) - Học viện Quản lý giáo dục Hà Nội 2004; Tạp chí “Giáo dục tiểu học” – Các số năm 2004, 2005, 2006 Hồ sơ giáo viên tiểu học (theo mẫu quy định của Sở GD&ĐT tỉnh Sơn La năm học 2006-2007, 2007-2008)... MỤC LỤC Nội dung Trang Lời nói đầu 1 Phần mở đầu 1.Lý do chọn đề tài 2.Mục đích nghiên cứu 3.Giới hạn đề tài 4.Khách thể và đối tượng nghiên cứu 5.PP nghiên cứu 2 3 3 4 4 Phần nội dung 1.Cơ sở lý luận 2.Cơ sở thực tế 3. Khó khăn, thuận lợi 4.Các biện pháp chỉ đạo... 5.Kết quả GD bước đầu... 6. Bài học kinh nghiệm 5 6 7 8 13 14 Phần kết luận 1.Đánh giá sơ bộ đề tài 2.Kiến nghị, đề xuất 3.Hướng nghiên cứu tiếp theo 15 15 15 Tài liệu tham khảo Mục lục 16 17
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem.doc