Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo công tác phụ đạo học sinh yếu kém theo tinh thần công văn 227/Gd-PT góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường Tiểu học số 1 Kiến Giang
Theo Luật giáo dục Việt Nam, giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập giáo dục (điều 10). Để đạt được và giữ vững phổ cập giáo dục, bên cạnh làm tốt công tác huy động trẻ trong độ tuổi đến trường, duy trì tốt số lượng học sinh, cần coi trọng đến chất lượng giáo dục, đảm bảo cho trẻ em không những “ được học mà còn “ học được”.
Cuộc vận động “Kỉ cương - Tình thương- Trách nhiệm trong toàn Ngành đã và đang được đẩy mạnh, cùng với việc triển khai các cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, kết hợp cuộc vận động “ Hai không” với bốn nội dung: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, không vi phạm phẩm chất người thầy giáo, khắc phục tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp”. Để nâng cao giá trị thực tiễn các cuộc vận động đòi hỏi đội ngũ cán bộ- giáo viên càng phải nhận thức đầu đủ hơn, triển khai hoạt động dạy học tích cực hơn, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém, khắc phục tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp.
Là người giáo viên làm công tác dạy học và giáo dục trẻ, chúng ta phải thừa nhận rằng, học sinh yếu kém là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức cơ bản, một phần là do các em không thích học, không biết cách học dẫn đến ngày một tụt hậu so với trình độ chung của lớp. Tuy nhiên, không biết nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu là việc làm cần thiết, cấp bách trong giai đoạn giáo dục hiện nay.
Hay nói cách khác, phụ đạo cho học sinh yếu là một hoạt động bình thường và không thể thiếu được trong bất kỳ trường học nào nói chung, trường tiểu học nào nói riêng. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn bè có thể nắm bắt được những lỗ hổng kiến thức bản thân. Trong các nhà trường, việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém là việc làm thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với một đợt thi hoặc kiểm tra.
Mặc dầu vậy, đây là một việc làm rất tế nhị, đòi hỏi nhiều công sức, sự yêu thương tận tụy của người thầy, sự nỗ lực hết sức của học sinh, sự quan tâm của các bậc phụ huynh. Công tác phụ đạo học sinh yếu kém không thể nóng vội, phải có lộ trình hợp lý, có biện pháp hiệu quả và kịp thời, có kế hoạch riêng biệt cho mỗi học sinh.
ộ tuổi nên một tỉ lệ không nhỏ phụ huynh học sinh ỷ lại, lười học. - Nhận thức của một bộ phận phụ huynh chưa theo kịp yêu cầu của cuộc vận động, thiếu quan tâm của việc học tập của con cái, chấp nhận việc con học thua kém bạn bè. iii. kế hoạch triển khai chỉ đạo công tác phụ đạo học sinh yếu kém ở trường tiểu học số 1 kiến giang : Từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng của công tác phụ đạo học sinh yếu kém như trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra mục tiêu, nhiệm vụ và những biện pháp chỉ đạo như sau: Mục tiêu đề ra: *Nâng cao mặt bằng chất lượng, đạt chỉ tiêu đã đề ra (Trung bình trở lên: 100%, khá giỏi: 70%ọ). *Phấn đấu không có HS yếu trong năm học 2009- 2010 và các năm tiếp theo. Tất cả học sinh đều được lên lớp thực chất ( không có HS ngồi nhầm lớp). * HS hoàn thành CTTH đạt 100%. 2. Nhiệm vụ trọng tâm : *Tiếp tục tuyên truyền cuộc vận động” Hai không”; xác định rõ trọng tâm cuộc vận động: Dạy thật- học thật, học sinh lên lớp thực chất. *Ngăn chặn tình trạng xuất hiện học sinh yếu, học sinh nghỉ học dài ngày. 3. Các biện pháp triển khai thực hiện: Biện pháp 1: Ban giám hiệu phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ về tầm quan trọng của công tác phụ đạo học sinh yếu kém; lên kế hoạch chỉ đạo có tính khả thi, kịp thời. Cụ thể thực hiện tốt những vấn đề như sau: - Tiếp tục phối hợp với các tổ chức trong nhà trường thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” , cuộc vận động “ Dân chủ, kỉ cương, tình thương, trách nhiệm”; thể hiện bằng các việc làm cụ thể, giúp các em vượt qua tình trạng học yếu, tự tin vươn lên. - Lập kế hoạch chỉ đạo công tác phụ đạo học sinh yếu kém, thiết lập bộ hồ sơ theo dõi thường xuyên về: Nội dung, chương trình, bài soạn, kết quả tiến bộ của học sinh... - Phân công rõ trách nhiệm cho từng thành viên trong đội ngũ: Ban giám hiệu lên kế hoạch phụ đạo theo thời khóa biểu cố định- Các tổ chuyên môn nắm kế hoạch chỉ đạo của trường, kiểm tra, đôn đốc việc phụ đạo học sinh- Giáo viên thực hiện nghiêm túc kế hoạch chỉ đạo của nhà trường đề ra-Tổ chuyên môn, Ban giám hiệu kiểm tra công tác phụ đạo, đánh giá, điều chỉnh kế hoạch phụ đạo phù hợp tình hình từng giai đoạn. Giáo viên thực hiện nghiêm túc kế hoạch chỉ đạo của nhà trường đề ra. - Tăng cường dự giờ thăm lớp, giúp đội ngũ nắm chắc các phương pháp dạy học đối với từng loại bài trên lớp, phương pháp tiếp cận đối tượng học sinh yếu kém trong từng tiết học. - Tăng cường kiểm tra việc thực hiện của giáo viên, thể hiện qua các hình thức: + Sơ đồ lớp ( thể hiện vị trí ngồi của học sinh yếu, đôi bạn cùng tiến). + Dạy học trên lớp (cách giao việc, tiếp sức đối với học sinh yếu). + Chấm chữa bài cho học sinh yếu. + Theo dõi học sinh yếu. - Phối hợp với các lực lượng trợ giúp học sinh yếu. Tranh thủ sự hỗ trợ của các lực lượng trên địa bàn: Hội khuyến học, Cựu giáo chức, Cựu chiến binh... (Căn cứ vào thực tế để có biện pháp phù hợp: Ví dụ: Gia đình có hoàn cảnh khó khăn thì có thể trợ giúp SGK, vở... Học sinh lười học ham chơi, cần phối hợp trò chuyện giúp các em thấy rõ ích lợi của việc học, khuyến khích động viên các em...). - Kiểm tra chặt chẽ việc đánh giá chất lượng học sinh yếu ( Kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ). Trong các lần kiểm tra, học sinh yếu ngồi riêng, cán bộ quản lý hoặc tổ trưởng trực tiếp coi và chấm bài kiểm tra. - Thường xuyên tổ chức các chuyên đề liên quan đến công tác phụ đạo học sinh yếu kém. Có thể tổ chức theo hình thức sinh hoạt chuyên môn liên trường, hoặc mời phụ huynh có học sinh yếu, đại diện hội cha mẹ học sinh, đại diện UBND Thị trấn, các thôn trưởng cùng giáo viên có học sinh yếu, tổ khối chuyên môn để cùng hợp tác, bàn bạc, trao đổi, tìm biện pháp khắc phục. - Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua tự giác- hiệu qủa theo tinh thần cuộc vận động “ hai không”. Kết hợp chặt chẽ với Công đoàn động viên đoàn viên lao động triển khai cuộc vận động đồng thời tìm tòi các biện pháp, giải pháp giúp đỡ học sinh yếu kém. Phối hợp với Hội khuyến học khen thưởng cho học sinh yếu vươn lên trung bình, lớp không còn học sinh yếu ( qua các đợt kiểm tra định kỳ). Biện pháp 2: Tăng cường chỉ đạo vấn đề phân loại học sinh yếu kém, lên chương trình, thời gian phụ đạo học sinhyếu kém một cách khoa học, hợp lý: *Chỉ đạo phân loại học sinh yếu kém: đây là một việc làm tạo thuận lợi cho quá trình phụ đạo. Đối tượng học sinh phải học phụ đạo là những học sinh có điểm kiểm tra định kì không đạt trung bình và cả những học sinh tuy có đạt trung bình nhưng do chính giáo viên lập danh sách đề nghị cho phụ đạo vì không chắc với kết quả ấy. Học sinh yếu kém có thể phân thành nhiều loại: Học sinh “mất gốc” từ lớp dưới; học sinh có khả năng học được nhưng lười học, ít được sự quan tâm chăm sóc của phụ huynh nên ham chơi, ít dành thời gian cho học tập.... *Chỉ đạo lên chương trình: Giáo viên chủ nhiệm lập danh sách HS yếu các kĩ năng, lên kế hoạch, chương trình phụ đạo. Lưu ý: Chương trình phụ đạo phải bám sát chương trình dạy học để phụ đạo thêm cho học sinh về: - Nội dung kiến thức cơ bản. - Kỹ năng vận dụng làm bài tập, thực hành. - Ban giám hiệu duyệt chương trình phụ đạo, theo dõi quá trình thực hiện. *Chỉ đạo vấn đề thực hiện thời gian phụ đạo: - Thực hiện từ 11/2009 đến 20/5/2010 - Thời gian: Khối 1+2: 1 tuần 04 tiết ( tiết thứ tư buổi chiều hàng tuần). Khối 3: 1 tuần 04 tiết ( sáng thứ bảy hàng tuần). Khối 4+5:1 tuần 4 tiết ( dạy đồng thời với các tiết BD Toán+TV hàng tuần). Lưu ý: Trong quá trình lên lớp, GV chú ý dạy phân hóa đối tượng, điều chỉnh nội dung, chương trình phù hợp với khả năng của học sinh. Tuỳ theo kết quả kiểm tra học sinh yếu hàng tuần của tổ chuyên môn, của ban giám hiệu mà thời gian phụ đạo có thể tăng thêm vào các thứ bảy, chủ nhật hàng tuần. Biện pháp 3: Tăng cường chỉ đạo tổ chuyên môn làm tốt vai trò nồng cốt trong công tác phụ đạo học sinh yéu kém: - Chỉ đạo tổ chuyên môn nắm kế hoạch chỉ đạo của trường, lên kế hoạch triển khai công tác phụ đạo học sinh yếu kém trong tổ một cách thường xuyên, kịp thời, có hồ sơ theo dõi đầy đủ. - Chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn, thông qua dự giờ-trao đổi- hội thảo; tăng cưòng giúp đỡ giáo viên còn thiếu kinh nghiệm hoặc năng lực sư phạm còn hạn chế ( mỗi tuần ít nhất 1 tiết); thường xuyên rút kinh nghiệm, định hình cách dạy các môn, cách dạy từng loại bài; chỉ rõ biện pháp kỉ thuật, cách giáo viên tiếp cận học sinh yếu kém, kèm cặp giúp đỡ, tiếp sức từng đối tượng học sinh một cách phù hợp trong từng tiết học trên lớp. - Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức dự giờ, rút kinh nghiệm thường xuyên về công tác phụ đạo học sinh yếu kém, giúp đỡ đồng nghiệp và bản thân xây dựng nội dung và phương pháp dạy học một cách khoa học và có hiệu quả. Họp tổ khối hàng tuần để cùng phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc phục học sinh yếu. Đề xuất với nhà trường về cách khắc phục học sinh yếu. - Chỉ đạo tổ chuyên môn thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các biện pháp khắc phục HS yếu , giao trách nhiệm cho từng giáo viên và báo cáo thường xuyên cho nhà trường. Tổ trưởng báo cáo tiến độ tiếp thu của những em học sinh yếu qua các buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng. - Chỉ đạo tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức bồi dưỡng cá biệt ngoài giờ chính khóa ( cuối buổi học hàng ngày hoặc thứ bảy) do một trong hai giáo viên cùng khối đảm trách ( tự nguyện). Biện pháp 4: Đề cao vai trò chủ đạo của giáo viên trong công tác phụ đạo học sinh yếu: Giáo viên là nhân tố hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu. Nói cách khác, thành hay bại của công việc này phần lớn do giáo viên. Giáo viên được ví như một người huấn luyện viên trưởng. Nếu có được những thầy cô tâm huyết, có kinh nghiệm dạy học sinh yếu, tận tụy với từng học sinh thì kết quả mới khả quan được. Bởi vì, với học sinh yếu, giáo viên phải vừa dạy vừa dỗ các em đi từ những cái cơ bản nhất của môn học. Thực tế có nhiều thầy rất giỏi nhưng khi dạy đối tượng học sinh này thì không hiệu quả. Ngược lại có những thầy không phải siêu sao gì nhưng kỉ lưỡng, tỉ mỉ và kiên trì với học sinh thì sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, việc chọn giáo viên phụ đạo cho học sinh yếu kém vừa trên cơ sở tự nguyện vừa trên cơ sở dựa vào tâm huyết, sự tận tụy, chu đáo, quan tâm của từng giáo viên và tổ chuyên môn cũng không đứng ngoài việc này. Ban giám hiệu cần chỉ đạo người “huấn luyện viên trưởng” thực hiện tốt các vấn đề sau: - Từ đầu năm học, giáo viên chủ nhiệm phải nắm chắc tình hình học sinh của lớp mình xem những em nào yếu kém, yếu những môn gì hay yếu toàn bộ. GV chủ nhiệm phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém. Thăm hỏi gia đình học sinh, bàn bạc trao đổi với phụ huynh để có biện pháp rèn cặp. - Lập kế hoạch phụ đạo theo năm, tháng, tuần ngay từ đầu năm học, giữa kì, cuối kì và theo dõi lưu giữ cuối năm học nộp cho chuyên môn (để bàn giao cho chủ nhiệm đầu năm học sau theo mẫu). Xem xét sự tiến bộ qua hàng tháng, qua các đợt kiểm tra, nộp hồ sơ tại trường ( lưu giữ đến các năm sau, ngăn chặn tình trạng né tránh, đổ lỗi cho nhau). Riêng giáo viên lớp 5: Chuyển giao chất lượng học sinh lớp 5 lên THCS, lấy chất lượng kiểm tra cuối kỳ 2 các môn: Toán, Tiếng Việt làm cơ sở chính. - Chú trọng học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh nghèo, vì những học sinh yếu thường hay tự ti, hay mặc cảm. - Nâng cao chất lượng dạy học học sinh yếu ở các khâu: + Xây dựng chương trình, kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ( đảm bảo kiến thức, kĩ năng). + Bài soạn: Phải thể hiện rõ nội dung kiến thức, kĩ năng cần được tiếp sức cho học sinh yếu ( tạo điều kiện cho các em tiến kịp các bạn trong lớp). + Dạy học: Phải có sơ đồ chỗ ngồi ( Học sinh yếu phải được ngồi chỗ thuận lợi nhất, dễ dàng cho giáo viên tiếp sức; làm tốt phong trào “Đôi bạn cùng tiến”bố trí học sinh giỏi ngồi cạnh để giúp giáo viên trong một số trường hợp cụ thể). Trong từng phần của tiết học, cần lựa chọn hình thức dạy học phù hợp, tiết kiệm thời gian để giáo viên được tiếp cận, giúp đỡ học sinh yếu nhiều hơn. Giảng dạy trên lớp ở từng phần của mỗi tiết học cần lựa chọn hình thức hoạt động cho học sinh cả lớp một cách phù hợp, tiết kiệm được thời gian để tranh thủ tạo ra cơ hội cần thiết cho giáo viên tiếp cận học sinh yếu kém nhằm kèm cặp, hưóng dẫn, tiếp sức cần thiết trong mỗi tiết dạy. Mỗi học sinh yếu kém phải hoạt động tối thiểu như nhắc lại định nghĩa, định lý, quy tắc, đọc đoạn văn... Nội dung này được coi là biện pháp trọng tâm chủ yếu nhất trong công tác nâng cao chất lượng học sinh yếu kém và ngồi nhầm lớp do đó cần quan tâm thường xuyên và triển khai liên tục. Chẳng hạn, đối với phân môn chính tả: Trong lớp học có học sinh yếu về viết, viết rất chậm thì giáo viên đọc thật chậm, đọc xong phải đến tiếp sức cho học sinh, động viên học sinh, hoặc khi giáo viên đọc cho HS viết thì đối với học sinh yếu giáo viên cho học sinh mở SGK để tập chép... Hay đối với phân môn Tập đọc: Học sinh không đọc được các bài tập đọc hoặc đọc với tốc độ rất chậm. Giáo viên vẫn dạy bình thường, đến phần luyện đọc giáo viên gọi em đó đọc nhưng chỉ đọc một chữ cái, âm, vần, ghép tiếng dần dần học sinh đọc được và nâng cao dần lên (tập đọc). Trong phần tìm hiểu bài cũng cho các em học sinh yếu tham gia bình thường nhưng chỉ hỏi những câu dễ và gần gũi để các em trả lời được. - Tăng cường công tác kiểm tra, chấm chữa của giáo viên đối với học sinh trong các tiết luyện tập, chấm hết tất cả các bài tập, chấm chữa kĩ các lỗi mà học sinh yếu hay vấp phải. Thường xuyên khuyến khích, động viên để các em cố gắng. - Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý thuận tiện đối với đối tượng này để giáo viên có nhiều cơ hội, tiếp sức kịp thời. Phân công HS khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Xây dựng các nhóm học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh yếu. - Thường xuyên phối hợp với phụ huynh, kiểm tra việc tự học ở nhà ( ngăn chặn học sinh đi chơi không làm bài tập); Thông tin cho phụ huynh ít nhất mỗi tháng 1 lần ( Qua phiếu theo dõi). Sau mỗi lần thông tin, phụ huynh phải ký cam kết trách nhiệm về việc kèm cặp con em mình. Tóm lại, người giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt tình hình học tập cũng như diễn biến về tư tưởng của các em học sinh yếu, báo cáo thường xuyên cho BGH nhà trường (mỗi tuần/ lần) để nhà trường có kế hoạch chỉ đạo một cách sát sao, kịp thời hơn, có như vậy công tác phụ đạo học sinh yếu kém mới đạt hiệu quả như mong muốn. Biện pháp 5: Phối kết hợp tốt với chính quyền địa phương, phụ huynh học sinh cùng giúp sức giáo dục, giúp đỡ học sinh yếu kém vươn lên: *Đối với chính quyền địa phương: - Tham mưu với địa phương có biện pháp hỗ trợ vật chất cho những gia đình gặp khó khăn. - Duy trì tốt mối liên hệ với UBND Thị trấn và thôn trưởng các thôn, thường xuyên báo cáo về những phụ huynh không quan tâm đến việc học của con cái, phó mặc việc học của con cho nhà trường để từ đó UBND Thị trấn và các thôn có biện pháp nhắc nhở, động viên những phụ huynh học sinh này. * Đối với phụ huynh học sinh: Ban giám hiệu phải phối hợp thật tốt với các tổ chức đoàn thể và Ban đại diện hội cha mẹ học sinh, đặc biệt là những phụ huynh có con em thuộc diện phải phụ đạo. Phải trao đổi, giải thích rõ cho cha mẹ học sinh hiểu được sức học cụ thể của con em họ, biết được sự lo lắng, quan tâm và trách nhiệm của nhà trường để phối hợp, tạo điều kiện cho con em mình đi học đầy đủ. Làm thế nào để họ thấy rằng việc phụ đạo là việc làm giúp đỡ những học sinh yếu kém không theo kịp bạn bè, không theo kịp chương trình học. Giao việc cụ thể cho phụ huynh: - Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình. - Giúp đỡ HS trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho HS. - Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần. - Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em trước khi đến trường. - Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình hình học tập của con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ huynh để tìm biện pháp tốt nhất cho con em mình học tập. Phần kết luận Kết quả đạt được : Sau hai năm áp dụng các biện pháp nêu trên vào dạy học trong nhà trường, tôi tự nhận thấy hiệu quả đạt được rất cao: Số lượng học sinh yếu càng ngày càng ít đi, nhiều học sinh yếu đã vươn lên đạt điểm trung bình, thậm chí là điểm khá. Điều đó thể hiện rất rõ nét qua các bảng số liệu sau: Bảng thống kê số lượng HS yếu qua KTĐK giữa kì I, năm học 2009-2010 TT Tổ Lớp tshs Thống kê số lượng HS yếu kém Môn Toán Môn TV SL % Đọc tiếng Đọc hiểu Chính tả TLV 1 11 35 01 2,9 1 2,9 1 2,9 2 12 35 01 2,9 1 2,9 1 2,9 3 21 31 01 3,2 01 3,2 4 22 30 02 6,7 02 6,7 1 3,3 1 3,3 5 31 31 01 3,2 01 3,2 1 3,2 1 3,2 6 32 30 03 10,0 02 6,7 1 3,3 1 3,3 Tổ 1+2+3 192 09 4,7 08 4,2 3 1,6 03 1,6 2 1,1 7 41 34 03 8,8 02 5,9 8 23,5 1 2,9 2 5,9 8 42 36 02 5,6 02 5,6 9 25,0 3 8,3 9 51 27 02 7,4 1 3,7 1 3,7 10 52 28 02 7,1 1 3,6 1 3,6 1 3,6 Tổ 4+5 125 09 7,2 06 0,8 17 13,6 2 1,6 07 5,6 TT 317 18 5,7 14 4,4 20 6,3 05 1,6 09 2,8 Bảng thống kê số lượng HS yếu qua KTĐK cuối kì I, năm học 2009-2010 TT Tổ Lớp tshs Thống kê số lượng HS yếu kém Môn Toán Môn TV SL % Đọc tiếng Đọc hiểu Chính tả TLV 1 11 35 0 1 2,9 2 12 35 01 2,9 3 21 31 0 4 22 30 0 1 3,3 1 3,3 5 31 31 01 3,2 1 3,2 1 3,2 6 32 30 01 3,2 1 3,3 Tổ 1+2+3 192 03 1,6 1 0,5 3 1,6 2 1,1 7 41 34 01 2,9 3 8,8 1 2,9 8 42 36 01 2,7 3 8,6 9 51 27 0 0 1 3,7 1 3,7 10 52 28 0 0 1 3,6 1 3,6 Tổ 4+5 125 02 1,6 1 0,8 07 5,6 1 0,8 2 1,6 TT 317 05 1,6 2 0,6 10 3,2 1 0,3 4 1,2 Nhìn vào hai bảng thống kê ta thấy: Trong KTĐK giữa kì I, số học sinh yếu môn Toán:18 HS - chiếm tỉ lệ 5,7% số học sinh yếu môn Tiếng Việt: 02 HS - chiếm tỉ lệ 0,6% Trong đó, HS yếu kĩ năng đọc tiếng là: 14 HS - chiếm tỉ lệ 4,4% HS yếu kĩ năng đọc hiểu là: 20 HS - chiếm tỉ lệ 6,3% HS yếu kĩ năng Chính tả là: 05 HS - chiếm tỉ lệ 1,6% HS yếu kĩ năng Tập làm văn là: 09 HS - chiếm tỉ lệ 2,8% Tỉ lệ học sinh yếu toàn trường là 6,3%. Qua KTĐK cuối kì I, số học sinh yếu môn Toán giảm 13 HS, còn 05 HS - chiếm tỉ lệ 1,6%. số học sinh yếu môn Tiếng Việt giảm còn 01 HS - chiếm tỉ lệ 0,3% Trong đó, HS yếu kĩ năng đọc tiếng giảm 12 HS còn 02 HS - chiếm tỉ lệ 0,6% HS yếu kĩ năng đọc hiểu giảm 10 HS còn 10 HS - chiếm tỉ lệ 3,2% HS yếu kĩ năng Chính tả giảm 04 HS còn 01 HS - chiếm tỉ lệ 0,3% HS yếu kĩ năng Tập làm văn giảm 05 HS còn 04 HS - chiếm tỉ lệ 1,2% Tỉ lệ học sinh yếu toàn trường là 2,2%. Bảng thống kê số lượng HS yếu qua KTĐK giữa kì II, năm học 2009-2010 TT Tổ Lớp tshs Thống kê số lượng HS yếu kém Môn Toán Môn TV SL % Đọc tiếng Đọc hiểu Chính tả TLV 1 11 35 0 1 2,9 1 2,9 2 12 35 0 3 21 31 0 4 22 30 0 5 31 31 0 6 32 30 0 1 3,3 Tổ 1+2+3 192 1 0,5 1 0,5 1 0,5 7 41 34 01 2,9 01 2,9 1 2,9 8 42 36 01 2,7 01 2,7 9 51 27 01 3,7 1 3,7 01 3,7 1 3,7 10 52 28 01 3,6 01 3,6 Tổ 4+5 125 04 1,6 1 0,8 04 1,6 1 0,8 1 0,8 TT 317 04 1,3 2 0,6 05 1,6 1 0,3 2 0,6 Bảng thống kê số lượng HS yếu qua KTĐK cuối kì II, năm học 2009-2010 TT Tổ Lớp tshs Thống kê số lượng HS yếu kém Môn Toán Môn TV SL % Đọc tiếng Đọc hiểu Chính tả TLV 1 11 35 1 2,9 2 12 35 3 21 31 4 22 30 5 31 31 6 32 30 Tổ 1+2+3 192 1 0,5 7 41 34 8 42 36 9 51 27 10 52 28 Tổ 4+5 125 TT 317 0 01 0,3 0 0 0 Nhìn bảng thống kê chất lượng cuối năm học 2009-2010, ta dễ dàng nhận thấy rằng, số lượng HS yếu của các lớp ngày càng giảm đáng kể. KTĐK cuối năm, số lượng HS yếu môn Toán: Không Môn TViệt: Không Chuyển giao chất lượng lớp 5: 100% đạt khá giỏi. 100% học sinh được lên lớp thẳng. Đặc biệt có những học sinh đầu năm thuộc đối tượng học sinh yếu, cuối năm đã vươn lên xếp loại học lực đạt khá, đạt danh hiệu học sinh tiên tiến như em Nguyễn Văn Tiến Hải lớp 52, em Hoàng Thạch lớp 51,... Kết quả đó chứng tỏ rằng, ngoài sự nhiệt tình, tận tâm, tận lực của đội ngũ giáo viên trong dạy và học thì những biện pháp chỉ đạo công tác của phụ đạo học sinh yếu của nhà trường đưa ra có tính khả thi cao. Cuối năm học 2009-2010, trường không còn học sinh yếu lõi, không còn học sinh phải rèn luyện để thi lại trong hè. 2. Bài học kinh nghiệm: Từ thực tiễn chỉ đạo công tác phụ đạo học sinh yếu trong những năm qua, tôi đã đúc rút lại ngắn gọn thành các bài học kinh nghiệm sau: 1. Quán triệt và nâng cao nhận thức tầm quan trọng, ý nghĩa của các cuộc vận động do cấp trên phát động. 2. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo công tác phụ đạo học sinh yếu kém cụ thể, có tính khả thi ngay từ đầu năm học. Phân công rõ người rõ việc. 3. Cần đề cao vai trò, trách nhiệm của tổ chuyên môn, giáo viên, phụ huynh, học sinh trong công tác phụ đạo học sinh yếu. 4. Coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc để giải quyết kịp thời các vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện. 5. Làm tốt công tác tham mưu với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, thôn. Bởi khi các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương thông suốt, thấu hiểu vấn đề sẽ hỗ trợ, giúp sức cho nhà trường trong hoạt động dạy và học. Kết luận: Công tác Phụ đạo học sinh yếu là “ cuộc chiến” cam go trong việc nâng cao chất lượng dạy- học theo tinh thần cuộc vận động “ Hai không”. Mỗi cán bộ, giáo viên của trường phải nêu cao tinh thần, trách nhiệm trước học sinh, phụ huynh và chính quyền địa phương; giương cao phẩm chất và lương tâm nghề nghiệp, thực hiện dạy học đạt hiệu quả , chăm lo đến đối tượng yếu kém, phấn đấu không còn học sinh yếu. Tất cả học sinh đều được lên lớp thực chất. Trên đây là những suy nghĩ, những công việc bản thân đã làm, đang làm và tiếp tục thực hiện trong quá trình công tác giảng dạy tại trường TH số 1 Kiến Giang. Những kết quả gặt hái được đã khẳng định được tính khả thi của vấn đề đưa ra. Rất mong sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần nhỏ vào phong trào chung trong sự nghiệp giáo dục của huyện nhà trong giai đoạn hiện nay. Xin chân thành cảm ơn. Người viết Võ Thị Tường Vy
File đính kèm:
- Mot_so_bien_phap_chi_dao_cong_tac_phu_dao_hoc_sinh_yeu_kem_theo_tinh_than_CV_227.doc