Sáng kiến kinh nghiệm Hệ thống hóa kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của người học để nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu và học tập ở các cấp học phổ thông và cở sở luôn được các nhà quản lý, các nhà giáo dục đầu tư nghiên cứu và phát triển mạnh trong vài thập niên trở lại đây.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề chất lượng dạy học nói chung, dạy học Giáo dục công dân (GDCD) nói riêng ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các nhà giáo dục và toàn xã hội. Vì vậy Đảng, Nhà nước đã khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”, điều đó được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương II khóa VIII “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên ”.“ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học ”.
Việc phát triển tư duy cho học sinh và giảng dạy kiến thức về thế giới xung quanh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của những người làm công tác giáo dục. Nhằm hướng các em đến một phương cách học tập tích cực và tự chủ, người giáo viên không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: Ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách chủ động.
Qua nghiên cứu lí thuyết về sơ đồ tư duy cũng như những thành công việc áp dụng các phương pháp của sơ đồ tư duy, tôi thấy sơ đồ tư duy có nhiều lợi ích trong giảng dạy và học tập bộ môn GDCD, tạo cho học sinh hứng thú học tập và rèn luyện năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, rèn luyện năng lực tự học, sáng tạo cho học sinh và giúp học sinh có cái nhìn tổng thể.
ĐẶT VẤN ĐỀ Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của người học để nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu và học tập ở các cấp học phổ thông và cở sở luôn được các nhà quản lý, các nhà giáo dục đầu tư nghiên cứu và phát triển mạnh trong vài thập niên trở lại đây. Ở nước ta hiện nay, vấn đề chất lượng dạy học nói chung, dạy học Giáo dục công dân (GDCD) nói riêng ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các nhà giáo dục và toàn xã hội. Vì vậy Đảng, Nhà nước đã khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”, điều đó được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương II khóa VIII “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.“ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học”. Việc phát triển tư duy cho học sinh và giảng dạy kiến thức về thế giới xung quanh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của những người làm công tác giáo dục. Nhằm hướng các em đến một phương cách học tập tích cực và tự chủ, người giáo viên không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: Ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạoĐể làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách chủ động. Qua nghiên cứu lí thuyết về sơ đồ tư duy cũng như những thành công việc áp dụng các phương pháp của sơ đồ tư duy, tôi thấy sơ đồ tư duy có nhiều lợi ích trong giảng dạy và học tập bộ môn GDCD, tạo cho học sinh hứng thú học tập và rèn luyện năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, rèn luyện năng lực tự học, sáng tạo cho học sinh và giúp học sinh có cái nhìn tổng thể. Hiện nay ở trường THPT nói chung và Trường THPT Trường Chinh nói riêng, đa số học sinh thường lười học các môn xã hội, đặc biệt với môn GDCD các em cho rằng đây là môn học phụ nên các em không chú trọng dẫn đến học để đối phó. Bên cạnh đó, phương pháp dạy học truyền thống cũng phần nào làm giảm đi hứng thú của các em khi tiếp cận với bộ môn. Mặt khác, một số giáo giảng dạy bộ môn GDCD một phần nào đó chưa gây được hứng thú cho học sinh, vì vậy học sinh chưa thấy được giá trị của môn học, dẫn đến chán ghét môn học và chỉ học để đối phó nên chất lượng học tập chưa cao. Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sang tạo của học sinh trong quá trình tiếp cận và lĩnh hội kiến thức bộ môn GDCD. Trong những năm qua, tôi đã tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, tôi sử dụng các phương pháp, các cách truyền thụ kiến thức khác nhau cho những bài, những đối tượng học sinh khác nhau, thậm chí cùng một bài nhưng tôi đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để so sánh, trong đó tôi thấy phương pháp “Hệ thống hóa kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy” đã phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, đặc biệt là giúp các em dễ nắm bắt, dễ nhớ kiến thức bài học, thời gian đầu tư cho học bài vào các đợt kiểm tra, thi học kỳ, thi cuối năm được giảm đi rất nhiều, từ đó đã làm cho các em yêu thích môn học hơn và đã đưa lại hiệu quả cao trong chất lượng dạy và học. Chính vì vậy mà tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Hệ thống hóa kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy”. II. NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Để áp dụng và thử nghiệm phương pháp của mình, bắt đầu từ đầu năm học 2009 - 2010 tôi đã tiến hành khảo sát, tìm hiểu tình hình học tập, tình hình tiếp cận với nội dung và phương pháp mới của học sinh nói chung, đặc biệt những lớp mình trực tiếp giảng dạy để từ đó lên kế hoạch cho việc thực hiện phương pháp của mình. Với đề tài này tôi mới chỉ áp dụng cho học sinh khối 12 bắt đầu từ năm học 2009 – 2010. Để thực những giải pháp thử nghiệm đề ra: 2.1. Qúa trình chuẩn bị của giáo viên và học sinh 2.1.1. Đối với giáo viên - Trước hết cần phải nắm vững mục đích đào tạo của bộ môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông, đặc biệt phải chú trọng đến mối liên hệ với thực tiễn, mối liên hệ liên môn trong giảng dạy các bài cụ thể. - Để thực hiện thành công đề tài này người giáo viên cần phải tìm hiểu tâm lý, đối tượng học sinh, cần có sự so sánh về các phương pháp mà mình đã thực hiện cùng một bài dạy ở nhiều đối tượng, nhiều lớp khác nhau từ đó rút ra đâu là phương pháp mà các em yêu thích và đưa lại hiệu quả cao. - Vì đây là một thuật ngữ, một phương pháp tương đối mới lạ đối vối học sinh, đặc biệt là đối với học sinh vùng cao, vì vậy giáo viên cần làm cho các em hiểu như thế nào là “sơ đồ tư duy” và trong quá trình thực hiện giảng dạy các phần kiến thức có thể áp dụng cho các em hệ thống hóa kiến thức từng phần, từng nội dung để các em làm quen dần với phương pháp này. - Để sử dụng phương pháp “Hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ tư duy” giáo viên cần có sự đầu tư, chuẩn bị cụ thể cho từng bài, từng phần; phải nghiên cứu, thiết kế trước từng sơ đồ dùng để hệ thống kiến thức từng bài, từng mục; từ đó mới thiết lập sơ đồ tư duy của từng bài ở bìa roky hoặc giấy khổ lớn (đồ dùng dạy học), đặc biệt, sẽ dễ dàng hơn đối với những tiết sử dụng giáo án Powerpoint. - Cần phải đưa ra yêu cầu trước đối với học sinh về từng phấn, từng bài để các em chủ động và phát huy được tính sáng tạo của các em. 2.1.2. Đối với học sinh - Hoàn thành nhiệm vụ của người học sinh đối với bộ môn, đặc biệt trong xu hướng chúng ta đang đi sâu vào cải cách giáo dục đạy học theo phương pháp đổi mới “lấy học sinh làm trung tâm”. Vì vậy, ở mỗi tiết học để thành công các em cần có sự chuẩn bị bài ở nhà, cụ thể: + Tìm hiểu, làm quen với phương pháp thiết kế sơ đồ tư duy. + Tìm hiểu trước nội dung bài học, từ đó suy nghĩ, tự thiết kế sơ đồ hóa cho nội dung từng bài, từng mục mà giáo viên đã định hướng. + Tập trình bày trước lớp về vấn đề mà mình đã chuẩn bị. + Lắng nghe và giải đáp những trao đổi của các bạn. - Sau khi kết thúc từng phần, từng bài các em phải thể hiện sơ đồ vào vở và từ sơ đồ các em lập luận kiến thức toàn bài, đây là yêu cầu bắt buộc. - Tìm các thông tin, các tư liệu khác có liên quan đến bài học. 2.2. Tiến hành thử nghiệm giải pháp Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ áp dụng cho chương trình GDCD khối 12. Tuy nhiên, tùy vào từng phần, từng nội dung, từng tiết mà giáo viên có thể linh động áp dụng cho phù hợp, có thể sử dụng “Sơ đồ tư duy” để kiểm tra bài cũ, áp dụng vào dạy bài mới ..., qua đó các em sẽ nắm được kiến thức từng phần, từng tiết và đặc biệt là hệ thống hóa kiến thức toàn bài. Sau đây là những giải pháp mà tôi đã áp dụng: Ví dụ 1: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống hóa một đơn vị kiến thức Sau khi học xong mục 1b của bài 2 - Các hình thức thực hiện pháp luật, giáo viên cho các em hệ thống hóa kiến thức mục này bằng sơ đồ. Sơ đồ tư duy – Các hình thức thực hiện pháp luật Ví dụ 2: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống hóa kiến thức một tiết dạy Sau khi học xong tiết 1 bài 5, Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo, mục 1: Bình đẳng giữa các dân tộc. Sơ đồ tư duy – Quyền bình đẳng giữa các dân tộc Ví dụ 3: Sử dụng sơ đồ tư duy để kiểm tra bài cũ Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ của học sinh ở đầu tiết học nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức, làm việc tích cực, tư duy nhanh chóng và góp phần đổi mới hình thức kiểm tra. Trước khi dạy Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân. Giáo viên kiểm tra lại kiến thức Bài 7: Nội dung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Em hãy lập Sơ đồ tư duy chi tiết trình bày Nội dung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân? HS trả lời với sự hổ trợ của Sơ đồ tư duy (HS tự vẽ sơ đồ tư duy) Sơ đồ tư duy – Nội dung quyền khiếu nại, tố cáo Ví dụ 4: Sử dụng sơ đồ tư duy vào tiết dạy cụ thể trên lớp (45 phút) TPPCT: 7 – GDCD 12 Bài 3: CÔNG DÂN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT I. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Về kiến thức Biết được công dân có những quyền bình đẳng trước pháp luật là như thế nào. Nội dung các quyền bình đẳng đó ra sao ? Trách nhiệm của Nhà nước như thế nào trước các quyền bình đẳng đó. 2. Về kỷ năng Biết phân tích đánh giá đúng việc thực hiện quyền bình đẳng của công dân trong thực tế. Sử dụng kiến thức đã học để giải quyết một số tình huống thực tế trong cuộc sống có liên quan đến vấn đề đã học. 3. Về thái độ Có niềm tin với pháp luật, với Nhà nước trong việc bảo đảm cho công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật. Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác của xã hội. Phê phán những hành vi vi phạm quyền bình đẳng của công dân. II. PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỒ DÙNG DẠY HỌC 1. Đồ dùng dạy học : Sơ đồ – Sách GV – Sách GK – Máy tính – Đầu chiếu ... 2. Phương pháp : Thuyết trình – Đàm thoại - Thảo luận nhóm – Vấn đáp. III. CÁC BƯỚC LÊN LỚP 1. Ổn định lớp: 2. Kiểm tra bài cũ : Trách nhiệm pháp lí là gì? Mục đích của việc thực hiện trách nhiệm pháp lí nhằm để làm gì ? Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí? 3. Bài mới : Tuyên ngôn độc lập của nước ta ngày 02 – 9 - 1945 có ghi: “Mọi công dân đều có quyền bình đẳng”, điều 52 Hiến Pháp năm 1992 của nước ta có ghi “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Vậy, bình đẳng trước pháp luật là gì? Công dân được quyền bình đẳng về những vấn đề gì? Tại sao bất kì một quốc gia, một tổ chức nào cũng đề cập đến vấn đề bình đẳng? Bài học hôm nay sẽ làm sáng tỏ các vấn đề nêu trên. HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG BÀI GHI Hoạt động 1: Phương pháp thuyết trình - Đàm thoại GV: Em hiểu thế nào là bình đẳng trước pháp luật ? HS : trả lời GV : Kết luận bằng sơ đồ. GV : Em hãy phân tích lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong SGK trang 27. HS : Trả lời theo sự hiểu biết của mình. GV : Công dân được bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. GV : Vậy, thế nào là công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ ? HS : Trả lời GV kết luận bằng sơ đồ. GV : Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ được hiểu như thế nào ? HS : Trả lời. GV : Cho HS phân tích ví dụ ở SGK trang 28. Qua phân tích ví dụ trên, em rút ra kết luận gì ? HS : Trả lời GV : Kết luận bằng sơ đồ. Hoạt động 2: Phương pháp thuyết trình –Đàm thoại. GV : Thế nào là bình đẳng về trách nhiệm pháp lí ? HS : Trả lời GV : Nêu vụ án Năm Cam và đặt câu hỏi: Qua câu chuyện trên ta thấy điều gì ? HS : Thảo luận theo nhóm và đại diện phát biểu.( bình đẳng – bị xử lý – công bằng ) GV : Nêu tình huống: Để giải quyết công việc hợp thức hoá nhà cho nhanh, anh B đã qua trung gian anh A đút lót cho Chủ tịch xã một số tiền. Sự việc bị phát hiện, cả 3 bị Công an bắt. Theo em sẽ xử lí như thế nào? HS : Trả lời. GV : Kết luận bằng sơ đồ. Hoạt động 3 : Thảo luận cặp đôi GV : Cho các em thảo luận câu hỏi: Theo em, Nhà nước phải có trách nhiệm như thế nào trong việc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật? * Đại diện các cặp trình bày. * GV kết luận bằng sơ đồ. * Khái niệm bình đẳng trước pháp luật: 1. Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. a. Khái niệm: b. Nội dung: 2. Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lí 3. Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật 4. Cũng cố: Thảo luận nhóm GV: Chia lớp thành 4 nhóm: Mỗi nhóm hệ thống hóa kiến thức bài học bằng một sơ đồ tư duy. - Học sinh các nhóm hệ thống hóa kiến thức sau đó các nhóm dán sơ đồ của mình lên và cử đại diện nhóm lên thuyết trình bài qua sơ đồ của nhóm mình. - Các thành viên khác bổ sung. - GV nhận xét từng sơ đồ. - GV kết luận bằng sơ đồ tư duy. Sơ đồ tư duy bài 3 – GDCD 12 5. Dặn dò: - Về nhà vẽ sơ đồ vào vở. - Học bài và làm bài tập ở SGK trang 26. - Đọc bài và và suy nghĩ, thiết kế sơ đồ mục 1 của bài 4. III. BỘ SƠ ĐỒ TƯ DUY CỦA CHƯƠNG TRÌNH GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 1 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 2 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 3 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 4 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 5 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 6 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 7 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 8 – GDCD 12 SƠ ĐỒ TƯ DUY BÀI 9 – GDCD 12 IV. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN 4.1. Kết quả đạt được Trước yêu cầu đổi mới về nội dung, phương pháp dạy và học như hiện nay, “Lấy học sinh làm trung tâm”, tôi đã vận dụng, áp dụng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau cho mỗi đơn vị, mỗi phần, mỗi bài kiến thức, nhưng tôi thấy với việc áp dụng phương pháp “Hệ thống hóa kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy” đã phát huy được hiệu quả trong quá trình giảng dạy. Khi tôi áp dụng phương pháp này tôi thấy học sinh yêu thích môn học hơn, nắm kiến thức, nhớ kiến thức được dễ dàng, lâu hơn, đặc biệt trong quá trình áp dụng phương pháp này đã khai thác được tính tích cực, chủ động và tính tư duy sáng tạo của các em học sinh. Qua điều tra thông tin, qua trao đổi với các em, các em cho rằng với phương pháp này giúp các em làm bài, học bài dễ hơn, hiệu quả hơn, đặc biệt là với cách học này đã giảm được thời gian học bài rất nhiều mỗi khi đến tiết kiểm tra, đến kỳ thi học kỳ và cuối năm, đây là một lợi thế rất lớn cho các em khối 12 phải tập trung nhiều cho các môn thi tốt nghiệp và thi đại học, cao đẳng. Đây là bảng thống kê kết quả cuối năm của học sinh trong ba năm gần đây khi được áp dụng phương pháp này vào giảng dạy ở bộ môn GDCD 12. Ở đây tôi chỉ thống kê các lớp mà tôi đã dạy. Năm học 2009 - 2010: Lớp Sĩ số Điểm TBm cuối năm Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 12a1 36 2 5,6 15 41,6 18 50 1 2,8 12a2 41 2 4,9 19 46,3 20 48,9 12a3 42 3 7,1 20 47,7 19 45,2 12a4 45 6 13,3 26 57,8 13 28,9 0 0 Năm học 2010 - 2011: Lớp Sĩ số Điểm TBm cuối năm Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 12a1 38 3 7,9 21 55,3 14 36,8 0 0 12a4 44 9 20,4 31 70,5 4 9,1 0 0 12a5 39 4 10,3 25 64,1 10 25,6 0 0 12a6 41 2 4,9 19 46,3 20 48,9 0 0 Năm học 2011 - 2012: Lớp Sĩ số Điểm TBm cuối năm Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 12a1 35 6 17,1 16 45,7 12 34,2 0 0 12a2 43 8 18,6 19 44,2 16 37,2 0 0 4.2. Một số hạn chế Trong quá trình thực hiện và áp dụng giải pháp vào giảng dạy tôi thấy tuy kết quả phản ánh từ học sinh, từ kết quả cuối năm của các em là khá khả quan, nhưng để áp dụng được phương pháp này tôi đã gặp một số khó khăn và rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: - Với phương pháp này còn mang tính mới lạ đối với học sinh, đặc biệt là các em học sinh ở miền núi như trường chúng tôi, cho nên khi triển khai ở những tiết đầu còn mất khá nhiều thời gian so với thời gian dự kiến của giáo viên. Do đó, giáo viên cần phải cho các em tìm hiểu, xem một số sơ đồ mà mình đã thiết kế, vẽ, cho các em làm quen dần sau mỗi đơn vị kiến thức. - Để thực hiện thành công đòi hỏi giáo viên phải thiết kế các sơ đồ trước (đồ dùng dạy học), phân bố thời gian cho mỗi tiết học hợp lý, sau mỗi bài học cần định hướng trước cho học sinh về nội dung bài tiếp theo về thiết kế sơ đồ. - Sẽ thuận tiện và phong phú hơn cho giáo viên khi vẽ sơ đồ trên phần mềm Mindmap5 (Dowload miễn phí trên google). - Phạm vi thực nghiệm còn hẹp chỉ dừng lại ở chương trình GDCD 12. 4.3. Hướng phát triển của đề tài Qua quá trình nghiên cứu việc sử dụng sơ đồ tư duy vào trong dạy học GDCD 12 tôi thấy rằng có thế sử dụng sơ đồ tư duy vào trong dạy học không riêng gì môn GDCD 12 mà còn có thể áp dụng cho cả chương trình GDCD và các môn học khác ở trường THPT. 4.4. Một số đề xuất, kiến nghị Qua quá trình thực hiện đề tài, đặc biệt là quá trình thực nghiệm sư phạm, tôi có một số đề xuất: Muốn tổ chức dạy học với sự hỗ trợ của sơ đồ tư duy đạt được hiệu quả cao, cần phải: * Đối với giáo viên: Phải có năng lực tổ chức điều khiển Phải có một số buổi thảo luận về sơ đồ tư duy cho học sinh và giáo viên để hướng dẫn cách học tập và cách ghi chép bằng sơ đồ tư duy. Có các lớp tập huấn đổi mới PPDH cho GV theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. * Cơ sở vật chất: Trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đặc biệt là máy vi tính và máy chiếu (có kết nối internet). * Nếu Hội đồng khoa học thấy sáng kiến này có tính khả thi cao thì cần có kế hoạch triển khai nhân rộng phương pháp này đến tất cả các trường trên phạm vi toàn tỉnh. Đây chỉ là sáng kiến mang tính chủ qua của cá nhân tôi, do đó không thể nào tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy, cô giáo để đề tài này được hoàn thiện và mang tính khả thi hơn. Xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................................1 NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ..............................................................2 - Qúa trình chuẩn bị của giáo viên và học sinh ..2 - Tiến hành thử ngiệm giải pháp 4 BỘ SƠ ĐỒ TƯ DUY CHƯƠNG TRÌNH GDCD 12 ............10 KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN .....................20 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010, Hà Nội. [2]. Edward de Bono (2005), Tư duy là tồn tại, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [3]. Tony Buzan (2007), Mười cách thức đánh thức tư duy sáng tạo, NXB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội. [4]. Tony Buzan và Barry Buzan (2008), Sơ đồ tư duy, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. [5]. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Luật giáo dục, NXB Chính trị, Hà Nội. [6]. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Quá trình dạy - Tự học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [7]. Thái Duy Tuyên (2006), Phương pháp dạy học: Truyền thống và đổi mới, NXB Giáo dục, Hà Nội. [8]. Nguyễn Thị Hiền “Ứng dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học nhóm”, Khoa sư phạm, ĐHQG Hà Nội. [9]. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng, NXB Đại dọc sư phạm Hà Nội. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO NINH THUẬN
File đính kèm:
- SANG_KIEN_Bui_Quang_Quyen.doc