Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy môn Tin học Lớp 7

Thực tế qua những năm trực tiếp giảng dạy bộ môn cũng như trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận thấy: Hầu như học sinh đều rất yêu thích và hứng thú với môn Tin học. Tuy nhiên, chất lượng bộ môn qua các năm học chưa cao, đặc biệt là kĩ năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học sinh còn rất ngại khi sử dụng máy tính để rèn luyện kĩ năng.

1. Thuận lợi:

- Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo, lãnh đạo địa phương, Chi Bộ, Ban Giám hiệu nhà trường trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học; tạo mọi điều kiện thuận lợi về CSVC trang thiết bị dạy học.

- Giáo viên giảng dạy được đào tạo theo đúng chuyên ngành.

- Phần lớn các em học sinh có ý thức tự học cao, luôn tìm tòi học hỏi những kiến thức mới trong học tập và rất hứng thú với môn Tin học.

2. Khó khăn:

- Vẫn còn một số em học sinh tiếp thu kiến thức còn chậm, đặc biệt là kĩ năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học sinh còn rất ngại khi sử dụng máy tính để rèn luyện các kĩ năng vì sợ mình gõ chậm và sai.

- Số lượng học sinh trong một lớp học còn quá đông so với số lượng máy hiện có. Thiết bị chiếu sáng thường bị hư hao, không khí trong phòng máy không thoáng làm cho học sinh không tập trung vào bài giảng . ảnh hưởng rất lớn trong quá trình giảng dạy và học tập.

- Học sinh trên địa bàn chủ yếu là con em các gia đình làm nông dân, sự quan tâm của phụ huynh đến việc học tập của con em còn nhiều hạn chế, điều kiện để các em có máy vi tính ở nhà là rất khó, hầu hết các em chỉ được tiếp xúc, làm quen với máy tính trong giờ học dẫn đến việc sử dụng máy của học sinh còn lúng túng, chất lượng giờ thực hành chưa cao. Một bộ phận học sinh chưa coi trọng môn học, xem đây là một môn phụ nên chưa có sự đầu tư thời gian cho việc học.

 

doc11 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy môn Tin học Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI :
"GIẢNG DẠY MÔN TIN HỌC LỚP 7"A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. MỞ ĐẦU.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ nói chung của ngành tin học nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và được ứng dụng rộng rãi, tin học ngày nay là một phần không thể thiếu được của nhiều ngành trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Hơn thế nữa nó còn đi sâu vào đời sống của con người.
Do vậy, Việt Nam nói chung và ngành giáo dục đào tạo nói riêng phải đầu tư phát triển về mọi mặt. Đặc biệt là nguồn nhân lực tức là phải đào tạo ra một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội nhằm đáp ứng được nhu cầu trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để đáp ứng được các yêu cầu trên, môn Tin học đã được đưa vào giảng dạy ở các trường Trung học và Tiểu học với vai trò là môn học tự chọn.
Môn học tự chọn (Tin học) ở trường phổ thông hiện hành có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó trong xã hội hiện đại. Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kĩ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và cuộc sống.
Từ thế kỷ XXI, môn Tin học ở bậc THCS là môn học tự chọn cho những trường có điều kiện với thời lượng 2 tiết/tuần với tất cả các lớp ở cấp học. Là môn học mới đưa vào trường phổ thông và có những đặc thù riêng liên quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ, coi trọng làm việc theo nhóm. Đặc trưng của môn Tin học là kiến thức lí thuyết đi đôi với thực hành, đặc biệt ở lứa tuổi THCS phần thực hành còn chiếm thời lượng nhiều hơn.
Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học nói chung, Tin học 7 nói riêng bản thân tôi nhận thấy rằng nhiều học sinh còn yếu về kĩ năng thực hành trên máy. Thậm chí còn có một số học sinh còn ngại thực hiện các thao tác trên máy mà chủ yếu là quan sát các học sinh khác trong nhóm thực hành (học sinh khá -giỏi). Do vậy các tiết thực hành ít khi đạt yêu cầu chất lượng.
Từ thực tế trên, trong quá trình dạy học tôi luôn băn khoăn trăn trở làm thế nào nâng cao chất lượng trong mỗi giờ thực hành giúp các em thành thục các thao tác cơ bản với máy tính, nên trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú trọng đến việc hướng dẫn, chia nhóm thực hành sao cho các đối tượng học sinh đều có thời gian tiếp xúc, sử dụng máy nhiều, giúp các em có thể tự khám phá và tự học.
II. CƠ SỞ KHOA HỌC.
Công nghệ thông tin là một trong các phương tiện quan trọng nhất của sự phát triển, đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục của thế giới hiện đại, trong đó có Việt Nam. Chúng ta đang ở thời đại thông tin kĩ thuật số, thời đại Internet. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách đầu tư và phát triển về ứng dụng công nghệ thông tin như:
- Chỉ thị số 58-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chỉ rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước”.
- Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ GD&ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục đã chỉ rõ: Nâng cao nhận thức về vai trò của CNTT; ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục.
Phấn đấu thực hiện các mục tiêu cụ thể của ngành là: Tổ chức tốt việc dạy và học tin học ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập tin học trong nhà trường,...
Đặc trưng của môn Tin học là khoa học gắn liền với công nghệ, do vậy dạy học Tin học một mặt trang bị cho học sinh kiến thức khoa học về Tin học, phát triển tư duy thuật toán, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề, mặt khác phải chú trọng đến rèn luyện kĩ năng thực hành, ứng dụng, tạo mọi điều kiện để học sinh được thực hành, nắm bắt và tiếp cận những công nghệ mới của Tin học phục vụ học tập và đời sống. Nội dung chương trình của môn Tin học hiện hành ở các trường phổ thông đã đáp ứng được những yêu cầu trên.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
Thực tế qua những năm trực tiếp giảng dạy bộ môn cũng như trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận thấy: Hầu như học sinh đều rất yêu thích và hứng thú với môn Tin học. Tuy nhiên, chất lượng bộ môn qua các năm học chưa cao, đặc biệt là kĩ năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học sinh còn rất ngại khi sử dụng máy tính để rèn luyện kĩ năng.
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo, lãnh đạo địa phương, Chi Bộ, Ban Giám hiệu nhà trường trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học; tạo mọi điều kiện thuận lợi về CSVC trang thiết bị dạy học.
- Giáo viên giảng dạy được đào tạo theo đúng chuyên ngành.
- Phần lớn các em học sinh có ý thức tự học cao, luôn tìm tòi học hỏi những kiến thức mới trong học tập và rất hứng thú với môn Tin học.
2. Khó khăn:
- Vẫn còn một số em học sinh tiếp thu kiến thức còn chậm, đặc biệt là kĩ năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học sinh còn rất ngại khi sử dụng máy tính để rèn luyện các kĩ năng vì sợ mình gõ chậm và sai. 
- Số lượng học sinh trong một lớp học còn quá đông so với số lượng máy hiện có. Thiết bị chiếu sáng thường bị hư hao, không khí trong phòng máy không thoáng làm cho học sinh không tập trung vào bài giảng ... ảnh hưởng rất lớn trong quá trình giảng dạy và học tập.
- Học sinh trên địa bàn chủ yếu là con em các gia đình làm nông dân, sự quan tâm của phụ huynh đến việc học tập của con em còn nhiều hạn chế, điều kiện để các em có máy vi tính ở nhà là rất khó, hầu hết các em chỉ được tiếp xúc, làm quen với máy tính trong giờ học dẫn đến việc sử dụng máy của học sinh còn lúng túng, chất lượng giờ thực hành chưa cao. Một bộ phận học sinh chưa coi trọng môn học, xem đây là một môn phụ nên chưa có sự đầu tư thời gian cho việc học.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1. Khảo sát chất lượng học tập bộ môn:
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học, tôi thấy giờ thực hành học sinh rất ngại thực hành trên máy, thao tác thực hành chưa chuẩn, đa số chỉ có học sinh khá giỏi thực hành, số còn lại chỉ quan sát, khi giáo viên hỏi và yêu cầu thực hành thì không thực hành được. Vì thế, qua kết quả khảo sát đầu năm học còn thấp.
Kết quả khảo sát đầu năm học 2012-2013 (tiết thực hành)
TT
Lớp
Sĩ số
Kết quả kiểm tra
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
7D1
28
2
7.1
5
17.9
19
67.9
1
3.6
1
3.6
2
7D2
28
6
21.4
7
25.0
15
53.6
0
0.0
0
0.0
3
7D3
26
2
7.7
4
15.4
19
73.1
1
3.8
0
0.0
Tổng cộng
82
10
12.2
16
19.5
53
64.6
2
2.4
1
1.2
2. Thiết kế bài dạy thực hành phải phù hợp với nhiều đối tượng học sinh
Công việc thiết kế chu đáo trước một bài dạy và phù hợp với nhiều đối tượng là khâu quan trọng không thể thiếu của một tiết dạy học mà bất kì một giáo viên nào cũng phải biết. “Thiết kế trước bài dạy giúp giáo viên chuẩn bị chu đáo hơn về kiến thức, kĩ năng, phương pháp, tiến trình và tâm thế để đi vào một tiết dạy”. Để thiết kế một bài dạy phù hợp cho nhiều đối tượng học sinh thì tối thiểu nhất phải làm được những việc sau:
- Xác định được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kĩ năng, thái độ tình cảm. Tìm ra được những kĩ năng cơ bản dành cho học sinh yếu, kém và kiến thức, kĩ năng nâng cao cho học sinh khá giỏi.
- Tham khảo thêm tài liệu để mở rộng và đi sâu hơn vào bài giảng, giúp giáo viên nắm một cách tổng thể, để giải thích cho học sinh khi cần thiết.
- Nắm được ý đồ của sách giáo khoa để xây dựng và thiết kế các hoạt động học tập phù hợp với tình hình thực tế của đối tượng và trình độ học sinh, điều kiện dạy học. 
- Chuẩn bị tốt phòng thực hành, các thiết bị dạy học.
- Hoàn chỉnh tiến trình của một giờ dạy học với đầy đủ các hoạt động cụ thể.
Nếu thực hiện tốt những việc này xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt tâm thế để bước vào giờ dạy và đã thành công bước đầu.
3. Điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp
 Việc thiết kế tốt một bài dạy và phù hợp với từng đối tượng học sinh xem như đã thành công một nửa nhưng đó chỉ là bước khởi đầu cho một tiết dạy còn khâu quyết định thành công chính là ở khâu tổ chức điều khiển các đối tượng học sinh trên lớp.
Trong điều kiện CSVC của trường, với một giờ thực hành, việc quan trọng đầu tiên là chia nhóm thực hành. Với việc cho học sinh thực hành theo nhóm, học sinh có thể trao đổi hỗ trợ lẫn nhau - bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Với số lượng học sinh của lớp, số lượng máy hiện có, giáo viên phải có phương án chia nhóm một cách phù hợp (ở đây tôi chia nhóm đa dạng nhiều đối tượng). Tuy nhiên để việc thực hành theo nhóm có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn nội dung đưa vào thực hành phù hợp với nhiều đối tượng học sinh.
Cách chia nhóm: Chia nhóm từ 2-3 học sinh/máy. Các nhóm có thể tự cử nhóm trưởng của nhóm mình.
Các bước tiến hành:
- Giáo viên nêu vấn đề, yêu cầu và nội dung thực hành.
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh các kĩ năng thao tác trong bài thực hành, thao tác mẫu cho học sinh quan sát.
- Tổ chức hướng dẫn các nhóm thực hành, gợi mở, khuyến khích học sinh tích cực hoạt động.
- Giáo viên quản lí, giám sát học sinh thực hành theo nhóm :
+ Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên theo dõi quan sát và bổ trợ khi cần.
+ Chỉ rõ những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng học sinh yếu, kém trong các nhóm, những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi trong nhóm.
+ Phát hiện các nhóm thực hành không có hiệu quả để uốn nắn điều chỉnh.
+ Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp, nhưng tránh can thiệp sâu làm hạn chế khả năng độc lập sáng tạo của học sinh.
+ Trong quá trình thực hành, giáo viên có thể đưa ra nhiều cách để thực hiện thao tác giúp các em rèn luyện và nâng cao kĩ năng.
- Giáo viên có thể kiểm tra hiệu quả làm việc của các nhóm bằng cách chỉ định một học sinh trong nhóm thực hiện lại các thao tác đã thực hành. Nếu học sinh được chỉ định không hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm gắn cho các thành viên trong nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng. Hoặc cho các nhóm trưởng kiểm tra, đánh giá kết quả thực hành lẫn nhau. Làm được như vậy các em sẽ tự giác và có ý thức hơn trong học tập. Giáo viên nhận xét, bổ sung và tổng kết kiến thức. 
Giáo viên cũng nên có nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các nhóm để kịp thời động viên, khuyến khích các nhóm thực hành tốt và rút kinh nghiệm đối với các nhóm chưa thực hành tốt.
Ví dụ: Minh hoạ về thiết kế và điều hành tổ chức các hoạt động của tiết thực hành
Bài thực hành 4: Bảng điểm của lớp em (Tiết 1)
Thiết kế bài học:
a/ Xác định mục tiêu trọng tâm của bài: 
+ Học sinh biết nhập các công thức và hàm vào ô tính.
+ Biết sử dụng một số hàm cơ bản Average, Max, Min.
+ Xác định các kĩ năng, kiến thức các đối tượng học sinh cần đạt: 
++ Đối tượng học sinh yếu, kém: Nhập được công thức để tính điểm trung bình, sử dụng được một số hàm để tính toán ở mức đơn giản.
++ Đối tượng học sinh trung bình: Sử dụng công thức, hàm để tính toán trong bảng tính.
++ Đối tượng học sinh khá-giỏi: Sử dụng thành thạo công thức, hàm để tính toán.
b/ Chuẩn bị phòng máy, thiết bị dạy học (máy tính, máy chiếu), sao chép một số tệp bảng tính của các bài thực hành trước có liên quan đến bài thực hành (tệp “Danh sach lop em”, “So theo doi the luc”).
c/ Thiết kế và điều hành tổ chức hoạt động học tập của học sinh trên lớp.
Hoạt động 1: Lập công thức tính điểm trung bình.
+ Mục tiêu: Học sinh lập được công thức để tính điểm trung bình. Hoạt động theo nhóm, ưu tiên đối tượng học sinh yếu, kém. Sau khi đã phân nhóm thực hành phù hợp, giáo viên tiến hành các bước:
++ Nêu nội dung và các yêu cầu của hoạt động 1.
++ Hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm với yêu cầu của “Bài tập 1” trước khi bắt tay vào thực hành tính toán bằng các câu hỏi sau:
? Lập công thức tính điểm trung bình như thế nào.
? Các thành phần trong công thức có thể là những đối tượng nào, 
++ Giáo viên thao tác cho các nhóm quan sát, đặc biệt là đối tượng học sinh yếu, kém.
++ Tổ chức hướng dẫn cho các nhóm thực hành: Đối tượng học sinh yếu, kém thao tác nhập công thức để tính điểm trung bình của các bạn trong lớp trong cột “Điểm trung bình”, tính điểm trung bình của cả lớp và ghi vào ô cuối cùng của cột “Điểm trung bình” - Hình 30. Cho học sinh lập từng công thức một để ghi nhớ. Giáo viên quan sát, tuỳ từng trường hợp cụ thể để chỉ dẫn thêm (VD: Sử dụng địa chỉ của các ô thay cho các giá trị cụ thể trong ô, sử dụng địa chỉ của khối,...).
Hình 30. Bảng điểm lớp em.
Đối tượng học sinh khá -giỏi: Thao tác tính điểm trung bình cho các học sinh trong danh sách, tính điểm trung bình của cả lớp. Yêu cầu học sinh phải biết sử dụng địa chỉ của khối trong công thức tính toán. Với đối tượng này giáo viên có thể rút ngắn danh sách học sinh trong trang tính để tránh việc các em mất nhiều thời gian vào việc nhập và chỉnh sửa số liệu trong công thức. Hướng dẫn cho học sinh ghi lại một số kết quả tính bằng công thức để so sánh với việc sử dụng hàm. Giáo viên kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện hoạt động. Chú ý điều chỉnh một số lỗi học sinh hay mắc phải trong quá trình thực hành.
Hoạt động 2: Sử dụng các hàm để tính toán
+ Mục tiêu: Học sinh sử dụng được các hàm AVERAGE, MAX, MIN để tính toán. 
++ Với đối tượng học sinh yếu: Biết sử dụng hàm AVERAGE để tính điểm trung bình, cơ bản sử dụng được các hàm Max, Min để tìm ĐTB cao nhất và ĐTB thấp nhất.
++ Với đối tượng học sinh trung bình: Sử dụng các hàm để tính toán với các tham số.
++ Với đối tượng học sinh khá - giỏi: Sử dụng được các hàm AVERAGE, MAX, MIN để tính toán với phần tham số của hàm đa dạng.
Tổ chức hoạt động:
+ Nêu nội dung và các yêu cầu của hoạt động 2.
+ Hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm với yêu cầu của bài tập với các câu hỏi sau:
? Sử dụng hàm nào để tính điểm trung bình.
? Để xác định điểm trung bình cao nhất, thấp nhất ta sử dụng những hàm nào
? Các thành phần trong tham số của hàm có thể là những đối tượng nào.
+ Tổ chức hướng dẫn cho các nhóm thực hành: Đối tượng học sinh yếu, kém thao tác sử dụng hàm Average để tính điểm trung bình của các bạn trong lớp trong cột “Điểm trung bình”, tính điểm trung bình của cả lớp và ghi vào ô cuối cùng của cột “Điểm trung bình”. Cơ bản sử dụng được các hàm Max, Min để xác định được điểm trung bình cao nhất, thấp nhất. Đối tượng học sinh khá -giỏi, thao tác tính điểm trung bình cho các học sinh trong danh sách, tính điểm trung bình của cả lớp bằng hàm thích hợp. Yêu cầu học sinh phải biết sử dụng địa chỉ của các ô, khối trong phần tham số của các hàm để tính toán. Xác định được điểm trung bình cao nhất và thấp nhất theo yêu cầu của “Bài tập 3”. Trong quá trình này, đối tượng học sinh yếu quan sát và thực hiện lại một số thao tác theo yêu cầu của giáo viên.
++ GV quản lí, giám sát học sinh thực hành theo nhóm, nhắc nhở, điều chỉnh kịp thời các nhóm thực hành không hiệu quả
++ Nhận xét đánh giá kết quả hoạt động 2.
++ Kiểm tra 1-2 học sinh: Trình bày lại các thao tác trong 2 hoạt động.
++ Tổ chức cho các nhóm tự nhận xét về kết quả và sự tích cực của các thành viên trong nhóm tạo cho các em có ý thức thi đua cao trong học tập.
++ Giáo viên tổng kết, bổ sung kiến thức: 
Nhấn mạnh lợi ích của việc sử dụng hàm và địa chỉ so với việc sử dụng công thức.
Chỉ cho học sinh thấy việc nhập công thức tương tự nhau sẽ mất nhiều thời gian, ta có thể thực hiện thao tác sao chép (giáo viên thực hiện) để gây hứng thú cho học sinh trong tiết lý thuyết sau.
Nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các nhóm để nhắc nhở, khuyến khích tạo không khí thi đua nhau trong học tập ở các nhóm.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua thời gian áp dụng phương pháp, tôi nhận thấy giờ thực hành thực sự thu hút các đối tượng học sinh hơn chứ không còn là giờ học của các đối tượng học sinh khá giỏi. Học sinh hoạt động tích cực hơn, các thao tác trên máy thực hiện khá thuần thục. Các đối tượng học sinh hỗ trợ được cho nhau để cùng học, cùng tiến bộ.
Kết quả kiểm tra học kì I lớp 7 năm học 2012-2013 (tiết thực hành)
TT
Lớp
Sĩ số
Kết quả kiểm tra
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
7D1
28
5
17.9
6
21.4
17
60.7
0
0.0
0
0.0
2
7D2
28
8
28.6
10
35.7
10
35.7
0
0.0
0
0.0
3
7D3
26
4
15.4
5
19.2
16
61.5
1
3.8
0
0.0
Tổng cộng
82
17
20.7
21
25.6
43
52.4
1
1.2
0
0.0
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Để thực hiện tốt một tiết dạy thực hành tin học phù hợp với các đối tượng học sinh thì phải thực hiện được các vấn đề sau:
- Thiết kế bài dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh.
- Giáo viên phải nắm bắt đối tượng học sinh về kĩ năng thực hành và phân loại đối tượng rõ ràng, chính xác.
- Điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp.
Giáo viên cần đưa ra hệ thống bài tập thực hành, yêu cầu về các kĩ năng sát với từng đối tượng học sinh.
Điều hành các hoạt động của học sinh một cách linh hoạt, tạo cơ hội cho các đối tượng học sinh được thực hành
- Đánh giá và theo dõi kết quả học tập theo từng đối tượng học sinh, khen những học sinh thực hành tốt, nghiêm túc, nhắc nhở những học sinh thực hành chưa tốt, chưa nghiêm túc.
C. KẾT LUẬN & ĐỀ XUẤT
Tin học là môn học mới đối với học sinh phổ thông. Để tạo hứng thú học tập cho học sinh và từng bước nâng cao chất lượng bộ môn đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả.
Trong quá trình dạy học áp dụng việc tổ chức hoạt động nhóm phù hợp với các đối tượng học sinh trong giờ thực hành tôi nhận thấy rằng các em thực hiện các kĩ năng cơ bản trên máy thành thạo hơn, tích cực tự giác trong các giời học và các em áp dụng được nhiều kiến thức được học vào cuộc sống hàng ngày. 
Nếu áp dụng phương pháp dạy học này trong những giờ thực hành của các khối lớp khác tôi tin chắc rằng nó sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân rút ra được trong quá trình dạy học. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp để tôi có thể hoàn chỉnh hơn đề tài này, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giang_day_mon_tin_hoc_lop_7.doc