Sáng kiến kinh nghiệm Giải thích định tính các hiện tượng quang học
Vật lý học không phải chỉ là các phương trình và con số. Vật lý học là những điều đang xảy ra trong thế giới xung quanh ta. Nó nói về các màu sắc trong một cầu vòng, về ánh sáng lóng lánh và tính cứng rắn của viên kim cương. Nó có liên quan đến việc đi bộ, đi xe đạp, lái ô tô và cả việc điều khiển một con tàu vũ trụ. Việc học môn Vật lý không chỉ dừng lại ở sự tìm cách vận dụng các công thức Vật lý để giải cho xong các phương trình và đi đến những đáp số, mà còn phải giải thích được các hiện tượng Vật lý đang xảy ra trong thiên nhiên quanh ta, trong các đối tượng công nghệ của nền văn minh mà ta đang sử dụng.
Mặt khác, thực tế việc giảng dạy Vật lý hiện nay, chủ yếu dành nhiều thời gian dạy học sinh nhận diện các kiểu, loại bài toàn khác nhau và cách thức vận dụng các công thức Vật lý cho từng kiểu, loại toán đó, mà ít chú trọng giúp học sinh giải thích các hiện tượng Vật lý xảy ra trong tự nhiên.
ng kịp thích nghi. Chẳng hạn, trong rạp chiếu bóng, khi hết phim, nếu đèn điện nhất loạt bật sáng, thì mắt bị lóa; mùa hè đang đi ngoài đường nắng, vén mành mành bước vào nhà, ta cũng bị lóa mắt, và phải đứng định thần vài phútmới trông rõ mọi vật trong buồng. Nguyên nhân sự lóa mắt, là do các tế bào nhạy sáng của mắt thay đổi độ nhạy chậm hơn điều kiện chiếu sáng. Mắt được cấu tạo để nhìn trong những điều kiện chiếu sáng rất khác nhau, từ những chỗ rất sáng, như đường phố lúc trưa hè, đến những chỗ tối như “đêm ba mươi”: võng mạc của mắt có hai loại tế bào; tế bào nón hoạt động khi đủ ánh sáng, (ban ngày) tế bào que chỉ hoạt động khi thiếu ánh sáng (chiều, tối). Cả hai loại tế bào này lại có độ nhạy tăng dần, khi lượng ánh sáng rọi vào mắt giảm. Trước thuỷ tinh thể của mắt, lại còn có con ngươi, tự động mở rộng khi thiếu ánh sáng, và tự động thu hẹp khi ánh sáng bên ngoài quá mạnh. Nhờ phối hợp khéo léo ba quá trình trên, mắt có thể hoạt động ở chỗ tối cũng tốt gần như ở chỗ sáng. Nhưng, nếu con ngươi của mắt mở rộng hay thu hẹp một cách tự động và nhanh chóng, thì các tế bào nhạy sáng của mắt chỉ thay đổi từ từ. Khi ta đi ngoài đường sáng, con ngươi khép nhỏ hết sức, và tế bào nón hoạt động với độ nhạy thấp, còn tế bào que không hoạt động. Nếu ta đột ngột bước vào căn nhà tối, thì con ngươi lập tức mở ra rộng, để lượng ánh sáng rọi vào mắt được nhiều hơn, nhưng tế bào nhạy sáng của mắt chưa kịp tăng độ nhạy. Do đó, ta chưa nhìn rõ các vật trong nhà. Phải một, hai phút sau, độ nhạy của các tế bào nón mới tăng đến mức đủ giúp cho mắt nhìn rõ mọi vật. Trong một, hai phút chờ đợi ấy, mắt ta bị loá. Ngược lại cũng vậy, từ trong hnà bước ra ngoài sân nắng, độ nhạy của các tế bào nhạy sáng chưa kịp giảm, ta cũng bị lóa. Ban ngày mọi vật đều sáng, sáng gần ngang với bóng đèn điện đang thắp, mắt hoạt động với độ nhạy thấp, nên khi nhìn bóng đèn cũng như nhìn mọi vật khác, không cần thay đổi độ nhạy, mắt không bị lóa. Buổi tối, mọi vật đều tối, trừ các bóng đèn trên cao. Nhìn mọi vật mắt phải tăng độ nhạy lên nhiều lần. Nếu đang lúc ấy, mắt chợt nhìn vào bóng đèn, sáng như các vật ban ngày , mắt sẽ bị lóa, vì độ nhạy của mắt chưa giảm kịp. 17. VÌ SAO CÔNG NHÂN HÀN ĐIỆN PHẢI CHE MẶT BẰNG MỘT CÁI MẶT NẠ CÓ TẤM KÍNH TÍM? Ánh lửa hàn phát ra rất nhiều tia tử ngoại, một loại “ánh sáng đen” có bước sóng ngắn hơn 3800A0. Trong quang phổ vị trí của những tia này ngoài vùng tím, vì thế gọi là tia tử ngoại (tử là tím). Tia náy có tác dụng hoá học rất mạnh, có thể phân huỷ tế bào. Phải làm thế nào để ngăn cản những tia tử ngoại tác dụng tới mắt công nhân trong quá trình làm việc. Tấm kính tím có công dụng như vậy. Mặt khác nó còn có tác dụng làm giảm độ chói của nguồn sáng để công nhân có thể nhìn rõ vật phải hàn, không bị lóa mắt. 18. TRONG BỆNH VIỆN NGƯỜI TA VẪN PHẢI CHIẾU ĐIỆN. “CHIẾU ĐIỆN” LÀ THẾ NÀO VÀ NHẰM MỤC ĐÍCH GÌ? Ngoài những tia tử ngoại có bước sóng ngắn, còn có những tia không nhìn thấy có bước sóng ngắn hơn. Đó là những tia Rơnghen (tia X). Người ta tạo ra tia Rơnghen bằng ống Rơnghen. Trong ống là chân không. Khi nối âm cực K và dương cực A với nguồn điện có hiệu điện thế cao, từ âm cực phát ra một chùm điện tử chuyển động nhanh. Đập vào đối âm cực AK làm bằng kim loại có nguyên tử lượng lớn (bạch kim hoặc vonfram) chùm điện tử bị hãm lại đột ngột; và AK phát ra tia Rơnghen. Tia Rơnghen có khả năng xuyên qua màn chắn sáng thông thường, làm huỳnh quang nhiều chất, có tác dụng làm đen phim ảnh v.v... Đối với cơ thể sinh vật tia Rơnghen xuyên qua thịt dễ hơn xương, xuyên qua những chỗ thương tổn cũng khác chỗ lành lặn. Đặt phía sau bộ phận bị chiếu tia Rơnghen một nàm chắn có phủ chất hùynh quang như kẽm sunfua, ta sẽ phát hiện được những chỗ tổn thương của bộ phận này. Công việc như vậy gọi là “chiếu điện”. Nếu thay màn chắn huỳnh quang bằng một phim ảnh, ta sẽ chụp được vết thương trên cơ thể đó (chụp điện). Chiếu điện, chụp điện nhằm mục đích chuẩn đoán bệnh, xác định vị trí những vật lạ chui vào cơ thể (mảnh bom, đạn v.v...), hoặc vị trí tổn thương vì những nguyên nhân khác. Chiếu điện còn có thể phát hiện những chỗ rạn nứt trong các chi tiết máy. Nhìn chung, tia Rơnghen sử dụng rất nhiều trong y học và công nghiệp. 19. “TẮM ĐIỆN” LÀ THẾ NÀO? TẮM ĐIỆN CÓ TÁC DỤNG GÌ? Tắm điện là phơi mình dưới ánh đèn giàu tia tử ngoại. Tia tử ngoại có tác dụng tổng hợp sinh tố D cần thiết cho cấu tạo xương và có tác dụng diệt một số nấm. Vì thế trẻ em còi xương hoặc người mắc bệnh nắm ngoài da thường được điều trị bằng phương pháp "tắm điện”. Mặc dầu khí quyển hấp thụ rất nhiều tia tử ngoại, nhưng trong ánh nắng vẫn còn ít nhiều tia này. Do đó, “tắm nắng” cũng là một biện pháp chống còi xương. 20. “MA TRƠI” LÀ GÌ? Những đêm tối trời, khô ráo, trên các bãi tha ma thường xuất hiện những khối sáng xanh chập chờn trong gió. Hiện tượng này được những người mê tín gọi là “ma trơi”. Chúng ta biết, một số phản ứng hoá học, nhất là những phản ứng ôxy hoá thường kèm theo sự phát quang. Chất hoá phát quang “cổ điển” nhất là chất lân tinh (phốt pho) mà người ta đã phát hiện từ 1669. Ở các bãi tha ma, phốt pho, từ các hài cốt bốc ra thành hơi qua kẽ đất bay lên, phản ứng với ôxy trong không khí tạo thành những khối sáng xanh chập chờn trong gió. Đó chính là bản chất của “ma trơi”. Hiện tượng hơi phốt pho phát quang trong không khí còn nhiều trường hợp kì lạ nữa. Giracđin kể rằng (1861) những lúc chập tối, sau một ngày lao động trong một môi trường đầy hơi phốt pho, những người thợ ra về với những hơi thở xanh lè trong bóng tối. Họ đã chứa đầy trong bụng, trong phổi hơi phốt pho. Magenđi cũng đã thử tiêm dầu phốt pho cho một con chó và nhận thấy trong hơi thở của nó có ánh sáng xanh trong bóng tối. 21. VÌ SAO CÓ MỘT SỐ CÁ CHẾT BỊ SÓNG BIỂN HẮT LÊN BỜ LẠI PHÁT QUANG TRONG ĐÊM TỐI? Con đôm đốm quen thuộc trong những đêm hè ở nông thôn nước ta là loại sinh vật có khả năng phát quang trong đêm tối. Nếu đom đốm chết, khả năng phát quang của nó cũng mất. Hiện tượng phát quang này liên quang đến quá trình sống của sinh vật. Đó là hiện tượng phát quang sinh vật. Nhưng những con cá chết trên bờ biển phát quang và những người đánh cá cho biết chúng không phát quang khi còn sống. Nhưng khi chúng đã chết, có một loại quang vi khuẩn bắt đầu sinh sống và phát triển trong cơ thể gần thối rữa của chúng làm cho ta tưởng cá phát quang. Chính do những quang vi khuẩn mà một số thịt, rau, xác người chết thối rữa cũng phát ánh sáng xanh. Cũng do vi khuẩn mà đôi khi mồ hôi, nước tiểu, những vết thương cũng phát ánh sáng xanh trong đêm tối. 22. NGƯỜI TA LÀM THẾ NÀO ĐỂ KIM VÀ CHỮ SỐ Ở MẶT ĐỒNG HỒ CÓ THỂ PHÁT SÁNG TRONG ĐÊM TỐI? Một số tinh thể như tinh thể kẽm sunfua, kẽm silicat hoặc kẽm catmi có tính chất phát quang rất mạnh khi bị kích thích bằng ánh sáng có bước sóng ngắn như tia tử ngoại, tia X (tia rơnghen) v.v... Áp dụng hiện tượng trên, người ta phủ lên mặt kim và chữ số của đồng hồ một lớp kẽm sunfua hoặc kẽm catmi trộn lẫn một lượng rất nhỏ chất phóng xạ như muối rađi hoặc muối mêsôtôri. Nhờ tia phóng xạ (trong đó có tia γ bước sóng rất ngắn) kẽm sunfua bị kích thích và phát ánh sáng lục rất rõ trong đêm tối. Sau một thời gian chất phóng xạ rã hết, tia phóng xạ tắt, kim và chữ số đồng hồ cũng hết sáng. Lượng chất phóng xạ pha thêm phải rất nhỏ, dưới mức gây nguy hiểm. 23. VÌ SAO ÁNH SÁNG ĐÈN ỐNG LẠI TỎA RA TỪ LỚP CHẤT MÀU TRẮNG PHỦ Ở THÀNH ỐNG? Đèn ống thường dùng là đèn chứa hơi thuỷ ngân. Khi xảy ra hiện tượng phóng điện, hơi thuỷ ngân phát sáng và cho một quang phổ giàu tia tử ngoại. Những tia tử ngoại này sẽ bị thuỷ tinh hấp thụ gần hết, vả chăng chúng cũng không có tác dụng trong sự chiếu sáng. Phải làm thế nào để biến đổi tia tử ngoại này thành ánh sáng nhìn thấy. Người ta phủ kín mặt trong của ống bằng lớp chất huỳnh quang. Khi bị tia tử ngoại tác dụng chất này sẽ phát quang cho ánh sáng nhìn thấy. Do đó ta thấy ánh sáng đèn ống tỏa ra từ khắp bề mặt của ống. Hình vẽ giải thích sự phát sáng của đèn ống. Chú thích : 1. Điện tử phát ra từ điện cực chuyển động với vận tốc lớn cho tới khi đập vào một nguyên tử thuỷ ngân. 2. Sự va chạm làm bật nguyên tử của thuỷ ngân ra khỏi quỹ đạo bình thường. Khi trở về quỹ đạo cũ nguyên tử phát xạ tử ngoại. 3. Bức xạ tử ngoại tác dụng vào chất huỳnh quang ở thành ống làm chất huỳnh quang phát ra ánh sáng nhìn thấy. Tuỳ theo chất huỳnh quang ta có thể thu được ánh sáng màu sắc khác nhau. Kẽm silicat phát quang màu lục Cađimi-borat phát quang màu hồng Cađimi-silicat phát quang màu đỏ Magiê-tungxtat phát quang lam nhạt Canxi-tungxtat phát quang lam Màu sắc ánh sáng huỳnh quang còn có thể thay đổi nếu pha thêm một lượng nhỏ chất kích hoạt. Chẳng hạn kẽm-silicat kích hoạt bằng mangan sẽ cho màu huỳnh quang từ lục đến vàng nếu nồng độ mangan tăng dần. Người ta có thể pha trộn những chất huỳnh quang trên (theo nguyên tắc trộn màu ánh sáng) để được những đèn ống đủ loại màu sắc, kể cả màu trắng ứng với ánh sáng ban ngày. 24. VÌ SAO DÂY TÓC ĐÈN ĐIỆN PHẢI LÀM BẰNG THAN HOẶC VONFRAM ? Dây tóc nhờ dòng điện nung nóng sẽ bức xạ ánh sáng. Để làm dây tóc đèn cần chọn chất rắn nào bức xạ mạnh nhất khi nung nóng, đồng thời có điểm nóng chảy cao. Người ta thấy rằng, ở cùng một nhiệt độ nung, vật càng đen càng bức xạ mạnh ; vật đen tuyệt đối bức xạ mạnh nhất. Trong thực tế những vật đen tuyệt đối rất hiếm. Than, mồ hóng, bột bạch kim chỉ là những vật xám. Dùng những vật xám này làm dây tóc đèn cũng tốt. Khi chưa tìm được kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao như vonfram, tantali, ôtxmi... người ta đã dùng than làm dây tóc đèn điện. Nhược điểm của bóng đèn điện dây than là ở nhiệt độ cao quá 20000K, than sẽ bốc hơi mạnh và phủ đen bóng thuỷ tinh. Do đó, dùng than làm dây tóc, người ta chỉ chế tạo được loại bóng điện công suất nhỏ. Nhược điểm thứ hai là do nhiệt độ nung thấp, phần lớn năng lượng bức xạ ở vùng hồng ngoại. Đối với vật đen, phải nung tới 60000K mới có bứcc xạ mạnh nhất ở vùng vàng lục. Đó là trường hợp Mặt Trời. Đèn sợi than, có nhiệt độ cỡ 20000K chỉ cho ánh sáng ngả nhiều về màu đỏ. Những kim loại hoặc ôxyt kim loại thường có tính bức xạ lọc lựa. Đối với chúng, năng suất phát xạ (hoặc hấp thụ) phụ thuộc vào bước sóng. Vonfram có nhiệt độ nóng chảy cao nhất trong các kim loại, khi nung nóng tới nhiệt độ 20000K nó có năng suất phát xạ ở vùng ánh sáng nhìn thấy lớn hơn ở vùng hồng ngoại nhiều. Ở cùng một nhiệt độ, bức xạ của vonfram tương đối ít đỏ hơn bức xạ của than (hoặc các vật xám). Vì những lý do đó, vonfram được dùng phổ biến làm dây tóc đèn điện hiện nay. 25. VÌ SAO DÂY TÓC ĐÈN ĐIỆN PHẢI QUẤN XOẮN ỐC ? Hiệu suất của đèn điện dây tóc tăng theo nhiệt độ của dây tóc. Trong bóng đèn chân không điện năng tiêu thụ hầu như cân bằng với năng lượng bức xạ. Nhưng trong các bóng đèn có khí trơ thường dùng hiện nay, một phần quan trọng điện năng bị mất đi dưới dạng nhiệt do dòng đối lưu của chất khí trong ống. Theo Langmuya, một trong những những người phát minh đèn điện có khí trơ, thì sự mất mát nhiệt của sợi dây nung nóng tăng chủ yếu theo chiều dài và tăng rất ít theo đường kính nung nóng cuả nó. Quấn xoắn ốc dây tóc, đường kính nung nóng của nó dường như to ra cò chiều dài thì giảm đi. Người ta đã tính rằng, khi chiều dài của dây quấn xoắn ốc bằng 1/6 chiều dài khi dây duỗi thẳng, sự mất mát nhiệt do đối lưu giảm đi từ 10 đến 20%. Một điểm khác cũng quan trọng, là khi quấn dây tóc xoắn ốc, độ sáng của phần bên trong các vòng dây sáng gấp đôi độ sáng bên ngoài, vì ở bên trong, ngoài ánh sáng do chính sợi dây phát ra còn có ánh sáng phản xạ từ phần đối diện. Có thể nói phần bên trong các vòng dây bức xạ như một vật đen. Do đó hiệu suất phát sáng tăng lên. Để tăng hiệu suất thêm nữa, người ta còn quấn hai lần xoắn ốc. 26. HAI BÓNG ĐIỆN CÙNG MỘT CÔNG SUẤT CÓ CƯỜNG ĐỘ SÁNG BẰNG NHAU HAY KHÔNG ? Đèn ống huỳnh quang có hiệu suất lớn gấp vài lần (3-5lần) đèn dây tóc, nghĩa là khi tiêu thụ cùng một công suất điện như đèn dây tóc, thì phát ánh sáng nhiều gấp bấy nhiêu lần. Đèn điện dây than có cường độ sáng chỉ bằng 1/3 cường độ sáng của đèn dây tóc kim loại cùng một công suất. Đèn dây tóc vonfram chứa khí trơ có cường độ sáng gần gấp đôi đèn không chứa khí, cùng công suất. Nhưng hai đèn cùng dùng dây tóc vonfram, chứa cùng một khí trơ, dưới cùng một áp suất, cũng có cường độ sáng khác nhau khi tiêu thụ cùng một công suất điện, dưới hai hiệu điện thế khác nhau. Khi hiệu điện thế tăng gấp đôi, chẳng hạn từ 110 vôn lên 220 vôn, muốn giữ nguyên công suất của đèn phải tăng điện trở của đèn lên gấp bốn lần, đồng thời giảm một nửa cường độ của đèn. Tăng điện trở của dây, phải làm cho dây nhỏ đi. Nhưng nếu dây nhỏ mà nhiệt độ của dây vẫn như cũ, thì dây chóng đứt. Để cho đèn vẫn bền như cũ, phải cho nhiệt độ dây thấp hơn, tức là làm cho cường độ sáng của đèn nhỏ hơn. Vậy đứng về phương diện thắp sáng, đèn hoạt động dưới hiệu điện thế thấp lại có hiệu suất cao hơn (tức là phát được nhiều ánh sáng, và ánh sáng trắng hơn) đèn hoạt động dưới hiệu điện thế cao. Điều này thấy đặc biệt rõ, đối với đèn công suất nhỏ (dưới 50oát). Vì vậy trong các dụng cụ quang học, như kính hiển vi, đèn chiếu v.v... người ta thường dùng đèn 6 vôn, 12 vôn. 27. VÌ SAO MẮC MỘT NGỌN ĐÈN Ở GIỮA SÂN ĐỂ ĐỌC SÁCH TA THẤY KÉM SÁNG HƠN KHI NGỒI ĐỌC SÁCH TRONG PHÒNG VỚI CÙNG NGỌN ĐÈN ẤY MẶC DẦU KHOẢNG CÁCH GIỮA ĐÈN VÀ SÁCH NHƯ NHAU ? Muốn đọc sách ta phải bảo đảm một độ rọi cần thiết. (Độ rọi cần thiết để đọc sách khoảng 30 lux). Thắp đèn ở ngoài sân để đọc sách thì độ rọi của đèn chỉ do ánh sáng từ đèn trực tiếp chiếu tới. Nếu thắp đèn trong nhà, thì ngoài ánh sáng trực tiếp từ đèn, còn ánh sáng tán xạ từ trần nhà, tường cũng ” rọi ” tới trang sách. Do đó, độ rọi lớn hơn mặc dầu cường độ sáng của ngọn đèn, khoảng cách từ đèn tới trang sách như nhau. Chính vì vậy trần nhà thường được quét vôi trắng để tán xạ ánh sáng tốt hơn, tức là để làm tăng độ rọi trong phòng. Còn tường nhà thường được quét vôi vàng hoặc lục nhạt để tán xạ ánh sáng vàng, lục dịu mắt (mắt ta dễ nhạy cảm với ánh sáng vàng hoặc lục nhạt) 28. DÙNG BÓNG ĐIỆN MỜ CÓ LỢI GÌ HƠN BÓNG TRONG SUỐT ? Dùng đèn điện có bóng thuỷ tinh trong suốt có hai điều bất tiện : 1. Dây tóc bóng đèn có độ chói lớn, khi sử dụng phải treo cao hoặc phải dùng chao đèn che khuất dây tóc. 2. Nếu ta nhìn vào mặt được rọi sáng, chẳng hạn trang sách, trong ánh sáng tán xạ từ trang sách có một phần ánh sáng tán xạ cho ảnh biến dạng của dây tóc và làm lóa mắt, khó đọc sách. Ngược lại đối với bóng đèn mờ, ánh sáng như toả ra từ khắp mặt ngoài của bóng, độ chói của nguồn giảm đi rất nhiều, nhìn thẳng vào bóng đèn ít bị lóa. Mặc khác dưới ánh sáng tán xạ của bóng điện mờ các vật phản xạ ít hơn, đọc sách dễ chịu hơn. Tuy nhiên trong phòng khách ở các khách sạn, phòng đợi ở các nhà ga, sân bay, ngoài các bóng đèn mờ, hoặc đèn ống huỳnh quang, người ta vẫn thường thắp thêm một số bóng đèn dây tóc, vì, chỉ dưới ánh sáng đèn điện dây tóc, kim cương, hột xoàn, mặt đá... trên nữ trang của các bà, các chị mới lấp lánh mạnh. 29. VÌ SAO CÁC VẬT CÓ MÀU SẮC? Màu sắc của một vật không trong suốt là màu của ánh sáng mà vật phản xạ và tán xạ. Màu của vật trong suốt là màu của ánh sáng mà vật cho truyền qua. Vì vậy, màu sắc của một vật vừa phụ thuộc vật, vừa phụ thuộc nguồn sáng chiếu sáng vật. Ở đây, chúng ta nói về màu sắc các vật được chiều bằng ánh sáng trắng. Nếu phản xạ và tán xạ đồng đều và mạnh tất cả các màu trong quang phổ của ánh sáng trắng, thì vật có màu trắng. Nếu hấp thụ hầu hết và đồng đều các màu của ánh sáng trắng, thì vật có màu đen. Vật trong suốt cho tất cả ánh sáng truyền qua là vật không màu. Thí dụ: nước, không khí, cồn. Vật phản xạ và tán xạ màu đỏ và hấp thụ hết tất cả các màu khác sẽ có màu đỏ. Thủy tinh hấp thụ tất cả các màu trừ màu lam sẽ có màu lam. Cũng có vật phản xạ, tán xạ một số màu và cho truyền qua một số màu khác. Khi nhìn vật đó qua ánh sáng phản xạ và tán xạ, thì nó có một màu nào đó; nhưng nhìn trong ánh sáng truyền qua lại thấy nó có màu khác. Chẳng hạn một lá vàng rất mỏng, có màu vàng khi nhìn trong ánh sáng phản xạ, nhưng soi lên lại thấy nó có màu lục. Màu sắc của vật trong suốt cũng phụ thuộc vào bề dày của nó. Ta thường thấy nước dưới ao, hồ sâu có màu lục, nhưng để một cốc nước hồ riêng biệt thì thấy nó trong suốt. Ánh sáng ban ngày truyền qua nước tới một độ sâu nào đó mới phản xạ lại. Nước lại hấp thụ ánh sáng có bước sóng dài nhiều hơn ánh sáng có bước sóng ngắn, truyền càng sâu xuống nước ánh sáng trắng càng mất nhiều màu đỏ và vàng. Do đó, nhìn xuống hồ ta thấy nước có màu lục. 30. CĂN CỨ VÀO MÀU CỦA NGỌN LỬA, CÓ THỂ ĐOÁN NHẬN TRONG CHẤT ĐANG CHÁY CÓ NGUYÊN TỐ GÌ KHÔNG ? Chất hơi khi phát sáng thì cho quang phổ vạch, nghĩa là ánh sáng của nó chỉ gồm một số màu, ứng với những bước sóng xác định. Bỏ vài hạt muối ăn vào ngọn lửa đèn cồn, ta thấy ngọn lửa có màu vàng đặc biệt. Quan sát ánh sáng vàng đó qua một kính quang phổ, ta thấy trên quang phổ có một vạch màu vàng, ở vị trí ứng với bước sóng 0,589μm. Khí hyđrô chứa trong một ống kín, ở áp suất vài milimet thuỷ ngân cũng phát sáng một cách dễ dàng, nếu ta gắn sẵn ở hai đầu ống hai điện cực, và nối hai cực này với một nguồn điện vài nghìn vôn. Khi đó hyđrô phát ánh sáng màu lam nhạt gần như trắng. Quan sát ánh sáng ấy qua kính quang phổ, ta thấy có bốn vạch : Đỏ, lam, chàm, tím. Các chất khí như ôxy, nitơ, hêli, khí cacbônic, hoặc hơi nước, hơi kim loại v.v... khi phát sáng đều cho một quang phổ gồm nhiều vạch riêng biệt. Điều rất đặt biệt là vạch quang phổ của các nguyên tố khác nhau là khác nhau, và vạch quang phổ của một nguyên tố xác định là hoàn toàn không đổi, dù nguyên tố ấy hoá hợp với bất kỳ nguyên tố nào khác. Chẳng hạn, sut, cacbônat natri, muối ăn, khi nóng sáng bao giờ cũng cho vạch quang phổ màu vàng đặc trưng cho nguyên tố natri. Vì vậy muốn biết trong một chất có những nguyên tố gì, ta có thể đốt cho chất đó nóng sáng, và quan sát ngọn lửa qua một kính quang phổ : nhìn các vạch phổ, có thể biết, nguyên tố nào đã phát ra vạch ấy. Đó là cơ sở của phép phân tích quang phổ, một trong các phương pháp quan trọng nhất. Nếu chất phải phân tích chỉ chứa một, hai nguyên tố, thì nhiều khi chỉ cần nhìn màu sắc ngọn lửa, người có kinh nghiệm cũng đoán nhận được, đó là nguyên tố gì./. PHẦN III: KẾT LUẬN Trong điều kiện lịch sử mới, nếu lạc hậu, thiếu những tri thức văn hoá khoa học tối thiểu, thì có thể bị bưng bít bởi các thứ khoa học giả dối, ngụy tạo, rơi vào con đường mê tín, mù quáng. Một số hiện tượng Quang học trong đề tài đã được khoa học giải thích chính xác, giúp ta có thể hiểu đúng bản chất các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và ứng dụng để giải thích các hiện tượng Quang học tương tự. Với những kiến thức vốn có và tiếp thu được trong quá trình giảng dạy tôi đã cố gắng trình bày tương đối hoàn chỉnh cơ sở lý thuyết đề tài. Do còn thiếu kinh nghiệm và khả năng có hạn, nên chắc chắn đề tài không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô giáo. Và hy vọng rằng, đề tài này sẽ là tài liệu giúp các em học sinh yêu thích môn Vật lý nói chung và phần Quang học nói riêng./. Pleiku, ngày 27 tháng 3 năm 2007 Người thực hiện Nguyễn Văn Hoành TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hỏi đáp về những hiện tượng Vật lý, tập IV (phần quang học) - NXB Khoa học và kỹ thuật. Tác giả : Ngô Quốc Quýnh, Nguyễn Đức Minh. 2. Vật lý vui, quyển 1,2. NXB-GD. Tác giả : IA.I. PÊ-REN-MAN. 3. Vật lý thật lý thú, tập 1,2 . NXB THANH NIÊN. Tác giả: Vũ Bội Tuyền. 4. Bộ sách tri thức tuổi hoa niên. NXB VĂN HOÁ THÔNG TIN. MỤC LỤC Trang Phần I: Mở đầu 1/ Lý do chọn đề tài 1 2/ Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 1 Phần II: Nội dung I. Cơ sở lý thuyết cơ bản của Quang học và một vài hiện tượng Quang học trong đời sống 2 a/ Cơ sở lý thuyết cơ bản 2 b/ Một vài hiện tượng Quang học thường gặp trong đời sống 3 II. Phương pháp chung để giải đáp nhanh những câu hỏi điịnh tính Quang học 7 III. 30 hiện tượng Quang học phổ biến trong tự nhiên 8 Phần III. Kết luận 25 Tài liệu tham khảo 26
File đính kèm:
- SKKNGiaithichdinhtinhmotsohientuongQuanghoc.doc