Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp nâng cao chất lượng kĩ năng nghe cho học sinh THCS
Muốn dạy tốt kỹ năng nghe thì mỗi giáo viên phải nắm được bản chất cụ thể của từng tiến trình trong quá trình nghe hiểu để từ đó giáo viên có những định hướng và giải pháp tích cực cho quá trình dạy. Sau đây tôi xin nêu khái niệm về kỹ năng nghe và bản chất của quá trình rèn luyện kỹ năng nghe cũng như quá trình dạy kỹ năng nghe.
- Nghe là một trong bốn kỹ năng quan trọng của việc học ngoại ngữ, nghe đúng thì nói mới đúng mà nghe nói là hai kĩ năng thường dùng nhất trong giao tiếp. Chúng ta không thể giao tiếp được nếu không nghe. Để thành công khi đối thoại, ta phải nghe hiểu được những gì người khác nói. Khi nói, ta có thời gian để suy nghĩ là sẽ nói gì, dùng từ như thế nào để diễn đạt một cách chủ động. Còn khi nghe thì ta phải tiếp thu một cách thụ động, phụ thuộc vào người nói nên khi học nghe người học thường lúng túng. Nghe là một trong bốn kỹ năng cần thiết trong quá trình giao tiếp. Giống như kỹ năng đọc, nghe cũng là một kỹ năng tiếp thu, nhưng nghe thường khó hơn đọc vì ngôn bản tiếp thu qua nghe là lời nói. Khi ta nói các ý thường không được sắp xếp có trật tự như khi ta viết; ý hay lặp đi lặp lại, có nhiều từ thừa, từ đệm, không đúng ngữ pháp. Hơn nữa khi nghe người khác nói, ta chỉ nghe được một lần, còn khi đọc ta có thể đọc đi đọc lại nhiều lần văn bản. Do đó khi dạy kỉ năng nghe, ngoài những thủ thuật áp dụng chung cho các kỉ năng tiếp thu, GV còn cần có những thủ thuật đặc thù cho các hoạt động luyện nghe của học sinh.
- Nghe là một kỹ năng ngôn ngữ liên quan đến các kỹ năng phụ khác. Khi chúng ta dạy cho các em nghe chúng ta cần chú ý đến các yếu tố sau:
* Khi nghe, người nghe phải có khả năng nhận biết sự khác nhau giữa các âm vị. Ví dụ, chúng ta phải nhận thấy được sự khác nhau giữa /g/ và /k/, ví dụ trong từ: "pig" và ' pick", hai từ này chỉ có một âm khác giữa chúng; hoặc là các cặp từ như " sheep và ship", " run và sun". Trong mỗi cặp từ này, sự khác nhau giữa các từ chỉ có một âm độc nhất đã hình thành một từ mới với nghĩa hoàn toàn khác nhau. Đó mới là từ chỉ có một âm tiết, còn những từ có nhiều âm tiết hơn.
không thể bằng người bản ngữ và giáo viên không thể sắm vai tất cả các nhân vật trong các bài hội thoại. - Giọng nói của người nói trong băng khác với giáo viên và các bạn trong lớp. Thầy và trò đều không phải là người bản xứ, nguời học ít có điều kiện nghe đúng thứ tiếng Anh của người bản địa, hay sử dụng ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp thực. Học sinh vì thế có khuynh hướng phản ứng chậm, thậm chí không giao tiếp được khi được đặt vào các tình huống giao tiếp cụ thể. - Học sinh bị phân tâm bởi tiếng ồn chung quanh. - Các em thường cố gắng nghe tất cả các từ có trong bài nghe nên dẫn đến các em rối trí . - Các em không theo kịp bài nghe do mãi mê suy nghỉ về nghĩa của một từ, cụm từ hay cấu trúc nào đó trong bài. - Trọng âm, ngữ âm bài nghe khác so với trọng âm, ngữ âm của giáo viên. - Không kiểm soát được những nội dung sẽ nghe nên khi nghe các em lúng túng. - Hoc sinh không nghe thường xuyên sẽ không nhận ra những từ mà các em đã biết. - Trở ngại lớn nhất phải kể đến là sự thiếu kiến thức ngôn ngữ. Vốn từ hạn chế là trở ngại lớn nhất đối với quá trình nghe hiểu của học sinh . Hạn chế này khiến học sinh do phải dừng lại suy nghĩ khi gặp từ mới, đã để vuột mất thông tin cần nắm tiếp theo. Đó là chưa kể đến yếu tố tâm lý căng thẳng khi nghe có thể biến những từ quen thuộc trở thành từ mới không nhận ra nổi trong quá trình nghe. Cách phát âm từ vựng còn làm tăng độ khó của môn nghe lên nhiều lần. Những biến đổi âm trong lời nói nhanh và liên tục so với cách phát âm rõ ràng từng âm tiết của giáo viên ở lớp cũng là trở ngại đáng kể. Chẳng hạn các hiện tượng nuốt âm, đồng hoá âm, đồng âm dị nghĩa, luôn là những thách thức không nhỏ đối với học sinh. Đó là chưa kể đến những giọng phát âm khác nhau vốn gây sốc và khủng hoảng tâm lý cho người học. - Một vấn đề nổi cộm khác làm ảnh hưởng không nhỏ kết quả quá trình dạy - học nghe là sự hỏng kiến thức văn hoá. Wardhaugh khẳng định ngôn ngữ và văn hoá có mối liên hệ không thể tách rời (inextricably), không thể hiểu và đánh giá ngôn ngữ ngoài yếu tố văn hoá. Vì vậy, nếu người học đem áp đặt mã văn hoá, phong tục tập quán của ngôn ngữ mẹ đẻ vào ngôn ngữ đích sẽ không giải mã đúng, từ đó không suy đoán được, thậm chí hiểu sai ý tưởng người nói cần chuyển tải. - Trong lớp học cả vấn đề tâm lý cũng là một khó khăn khác đối với người học trong tiếp nhận và phản hồi thông tin. Sự tự ti vì nghỉ mình không đủ khả năng nghe được và tâm lý này dể tạo thành một chuổi tâm lí thờ ơ, bất lực trước việc nghe - Tình trạng lớp đông và trình độ không đồng đều cũng gây nhiều khó khăn cho người dạy trong việc xử lý các tình huống ở lớp. Thái độ học thụ động trong giờ học nghe ở một số lớp tôi có dịp dự giờ cũng cho thấy học sinh dường như chưa quan tâm đúng mức đến việc tự nâng mình lên trong quá trình học nghe. 2.3.2. Các biện pháp khắc phục khó khăn khi dạy kĩ năng nghe: - Mỗi trường giành ra một phòng nghe nhìn phục vụ chung các tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, các tiết Âm Nhạc, và các tiết dạy nghe của môn Tiếng Anh. Chỉ cần có 1 máy vi tính và cái loa, giáo viên copy dữ liệu nghe vào đó và dùng mãi mãi. Phòng này nên nằm trên góc tầng 2, sẽ hạn chế được rất nhiều tiếng ồn và cũng đỡ ảnh hưởng đến các lớp chung quanh. Nếu trường thiếu phòng học thì phòng này vẩn được dùng như 1 phòng học bình thường, nhưng khi có các tiết học này thì trường linh động cho các lớp đổi phòng học cho nhau thì vẩn đảm bảo được số phòng học. - Giáo viên phải nỗ lực giúp học sinh nâng cao kiến thức về ngôn ngữ cho các em bằng cách khích lệ các em học tập bằng nhiều cách khác nhau, cho các em thấy tầm quan trọng của Tiếng Anh trong cuộc sống như tôi đã nêu ở mục "Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu". Hiện nay, đa số các hộ gia đình học sinh chúng ta đã có truyền hình nhiều kênh hay đầu máy video nên giáo viên giới thiệu cho các em biết những bài hát Tiếng Anh, những bộ phim hay, hấp dẫn, nổi tiếng trên các kênh HBO,MTV, MOVIE STARS ..., hay các bộ phim hoạt hình nổi tiếng, phổ biến trên kênh Cartoon...,hay kênh VTV4 phát cho người Việt Nam ở nước ngoài đều được dịch sang Tiếng Anh. Trên địa bàn huyện chúng ta cũng không hiếm những quán NET nên giáo viên nên khuyến khích các em tự học Tiếng Anh qua trang web học Tiếng Anh như Tiếng Anh 123, Hellochao, học Tiếng Anh 24h ,luyện nghe Tiếng Anh, học Tiếng Anh..., giúp các em làm quen với người nước ngoài qua các mạng xã hội facebook, twitter, LinkedIn. Tất cả nhằm tạo sự say mê cho học sinh, khi học sinh thích, say mê rồi thì việc học Tiếng Anh sẽ trở thành nhu cầu học tập của các em. - Cần cho học sinh có thói quen nghe Tiếng Anh một cách thường xuyên bằng cách giáo viên giảng bài bằng Tiếng Anh với những câu đơn giản mà các em đã được học và thỉnh thoảng nói chuyện với các em về các kênh, trang web trên để kích thích sự hiếu kì của các em. - Cần thay đổi những nội dung bài nghe trong chương trình khi chúng quá xa lạ với học sinh bằng những tài liệu nghe có nội dung gần gủi với thực tế đời sống văn hóa của các em. Giáo viên nên sưu tầm những bài nghe từ các kênh phát thanh hoặc các cuộc phỏng vấn, hội thảo ,phim ảnh có rất nhiều trên Internet ( Nhưng phải chú ý đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng của tiết học) Ngôn ngữ từ những tình huống thực tế đó được đánh giá là rất quan trọng trong kĩ năng nghe bởi nó giúp người học có cơ hội tiếp xúc với những ngữ điệu, giọng nói khác nhau. - Giới thiệu chủ đề, ngữ cảnh, tình huống, nội dung có liên quan đến bài nghe bằng các thủ thuật dẫn dắt gây hứng thú cho học sinh như tranh ảnh, mẩu chuyện vui hoặc những câu hỏi xuất phát từ chính cuộc sống của các em hoặc mang tính thời sự nhằm khai thác những gì học sinh đã biết về nội dung sẽ nghe, gợi trí tò mò, tạo hứng thú về nội dung bài sắp nghe. - Nên lôi kéo sự chú ý của học sinh bằng cách đoán kết quả của bài tập theo nhóm. Điều này giúp học sinh tập trung vào những thông tin cần thiết đối với bài nghe và gây hứng thú của học sinh đối với bài học. Nếu kết quả đoán của các em đúng hoặc gần đúng sẽ khích lệ các em tập trung vào những bài học lần sau và tập trung để cạnh tranh kết quả đúng với bạn. Điều này sẽ dẫn đến một thói quen dự đoán khi nghe và một kĩ năng dự trù ngôn ngữ cho các tình huống giao tiếp mà rất quan trọng cho cuộc sống của mỗi chúng ta. - Thay đổi phong phú các dạng bài nghe. Giáo viên không nên cho học sinh của mình nghe đi nghe lại một số dạng bài, chắc chắn sẽ gấy ra hiệu ứng chán nãn. Ngược lại, người dạy nghe nên kết hợp và thay đổi nhiều dạng bài để học sinh tiếp cận và có hứng thú hơn khi nghe. Sau đây là một số dạng bài nghe phổ biến: hội thoại giữa hai hoặc nhiều người; truyện cười; bài học; bài hát; tin tức phát sóng trên truyền hình, đài phát thanh; truyện miêu tả; xem videos clip về hoạt cảnh;... - Luôn luôn đưa ra yêu cầu cụ thể khi nghe. Soạn ra các yêu cầu, nhiệm vụ và bài tập về nội dung nghe một cách rỏ ràng và dể hiểu. . Giáo viên không nên để học sinh nghe một đoạn băng mà không đưa ra yêu cầu nào cả. Vì vậy, giáo viên phải giới thiệu nhiệm vụ cho học sinh trước khi nghe và phải chắc chắn là học sinh đã hiểu hướng dẫn bằng câu hỏi “What are you going to do now?”. Từng dạng bài tập nên được thiết kế / biên soạn để thực hành những kĩ năng nghe khác nhau: nghe tìm ý chính, nghe điền từ, nghe thông tin cụ thể, và các bài tập phải gây hứng thú cho học sinh, phải hấp dẫn, phải có cao trào và có tính đột phá. - Giải thích một số từ và cấu trúc cần thiết, liên quan trực tiếp đến nội dung chính của bài học: tuy nhiên không cần giới thiệu hết từ mới, nên để học sinh đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh hoặc bỏ qua những từ không cần thiết với chủ đề của bài học. Nếu học sinh không hiểu nghĩa của từ mà giáo viên cần mở rộng vốn từ cho học sinh, sau khi nghe, giáo viên sẽ giải nghĩa bằng định nghĩa hoặc cho ví dụ. - Khi tiến hành các hoạt động nghe, việc dùng các giáo cụ trực quan, tranh, hình ảnh minh hoạ kèm theo sẽ hỗ trợ rất tốt cho việc làm rõ ngữ cảnh, gợi ý nội dung sắp nghe. ( hiện nay trên thư viện violet ở mục tư liệu điện tử có nhiều bài nghe trong chương trình được một số giáo viên và chuyên gia xây dựng thành video clip, giáo viên nên tải về cho học sinh xem khi nghe). Tranh ảnh và clip là những phương tiện để kiểm tra mức độ nghe hiểu của học sinh rất tốt. Nghe, xác định tranh có liên quan, sắp xếp tranh theo thứ tự... - Tiến hành thiết kế các hoạt động nghe theo ba giai đoạn: trước khi, trong khi và sau khi nghe. Chia quá trình nghe thành từng bước: + Nghe ý chính, trả lời câu hỏi hướng dẫn, so sánh dự đoán. + Nghe chi tiết, hoàn thành bài tập, yêu cầu nghe. + Nghe, kiểm tra đáp án với tốc độ bình thường, không ngừng, hoặc ngừng nếu các em không thể phát hiện ra vấn đề. ( Nếu học sinh nghe không rõ thì ở mỗi từ, cấu trúc quan trọng, giáo viên cho băng tạm ngừng, tua lại và cho các em nghe lại). - Khai thác sự khác nhau trong câu trả lời của các cặp, các nhóm và so sánh kết quả, thảo luận sau khi nghe nhằm kích lệ học sinh trong những tiết học sau. - Đảm bảo chất lượng mẫu nghe. + Băng đài có chất lượng tốt, đảm bảo ngôn ngữ chuẩn. + Giáo viên đọc với tốc độ trung bình, ngữ âm, trọng âm chuẩn xác. Nói tóm lại, giáo viên phải kiên nhẩn chờ đợi sự tiến bộ của học sinh bằng sự động viên, tận tình và cởi mở của mình. Sau mỗi thành công, mỗi cố gắng của học sinh dù nhỏ giáo viên cũng phải khuyến khích các em bằng những lời khen có cánh, bằng một tràng pháo tay tán thưởng của cả lớp hay việc thưởng điểm cho các em sẽ đem lại tự tin và hứng thú cho các em rất nhiều. 2.3.3. Các giai đoạn và nội dung của một bài nghe: a- Pre- listening a.1. Giới thiệu chủ đề bài nghe theo cách đã đề cập trên. a.2. Giới thiệu từ vựng, cấu trúc mới. Như trên tôi đã trình bày, không nhất thiết phải giới thiệu tất cả các từ mới hoặc cấu trúc trước khi nghe. Các em có thể phát triển kỹ năng nghe bằng cách thực hành đoán nghĩa của từ. Chỉ có những từ gây khó khăn cho học sinh khi hoàn thiện bài tâp mới cần được dạy trước. a.3 Dự đoán: Chuẩn bị cho học sinh nghe, nghĩ về điều sắp nghe bằng cách sắp xếp, dự đoán hoàn thành các dạng bài tập trước khi nghe. Các dạng bài tập đó thường là: + T/F statement prediction: Giáo viên viết 3- 5 câu lên bảng về ý chính của bài nghe. Học sinh chia sẻ, dự đoán xem câu nào đúng hoặc sai với điều sắp nghe. + Open - prediction Cho học sinh xem một số tranh, học sinh đoán và viết dự đoán về điều sẽ nghe hoặc giáo viên đặt câu hỏi, học sinh đoán câu trả lời. Hoặc giáo viên cho học sinh đoán để điền từ còn thiếu trong đoạn văn, đoạn hội thoại ... Khi nghe, học sinh sẽ đánh dấu vào đều mình đoán đúng. + Ordering Cho học sinh một số tình huống hoặc tranh có đánh số a,b,c... đã bị đảo vị trí lên bảng. Học sinh thảo luận nhóm đoán thứ tự tranh hoặc câu có sẵn sẽ xuất hiện trong bài nghe. + Pre- questions: Giáo viên cho một vài câu hỏi dể có chứa ý chính của bài nghe để tập trung sự chú ý của học sinh trong khi nghe . Học sinh chỉ đoán câu trả lời, sau khi nghe lần một, yêu cầu học sinh đối chiếu kết quả đoán với đáp án học sinh đã nghe được. + Prediction and matching: Học sinh đoán và ghép người hoặc vật với bức tranh hoặc câu phát biểu, địa điểm và bản đồ hoặc tình huống ... + Đoán vị trí, đặc điểm của tình huống bài, ý chính của bài... b- While- listening Học sinh tập trung nghe chi tiết để hoàn thành yêu cầu nghe..Mở băng 2-3 lần, yêu cầu học sinh nghe, làm các dạng bài tập nghe hiểu theo yêu cầu sách giáo khoa hoặc do giáo viên thiết kế như: + Defining T - F : Nghe và xác định xem các ý kiến đúng hay sai. + Check the correct answers. Tìm đáp án đúng trong số các lựa chọn. + Matching: Liên kết tên với địa danh, tên với hoạt động, tên và sự kiện, hoạt động và sự kiện... + Filling in the gap, chart : Điền từ, thông tin còn thiếu vào ô trống của đoạn văn, bài hội thoại, biểu đồ.... + Answer the comprehension questións: Trả lời câu hỏi. + Deliberate mistakes: Nghe và tìm lỗi. + Gap- filling: Điền từ, thông tin cho sẵn vào ô trống. + Reordering: Sắp xếp lại tranh, bài hội thoại, các ý cho một bài nghe bất kì. + Finding the topic: Nghe và tìm chủ để của bài nghe. ... c. Post- listening: Giáo viên chọn chủ đề liên quan đến bài nghe , thiết kế các hoạt động sau khi nghe như: thay đổi thông tin, nêu ý kiến cá nhân, nêu các vấn đề tương tự cho học sinh liên hệ bản thân. Hoạt động có thể là: + Recall / retell: Cho học sinh kể lại bằng ngôn ngữ của mình. Giáo viên có thể giúp học sinh bằng những gợi ý nhỏ như tranh, câu đơn giản. + Write it up: Yêu cầu học sinh viết lại những thông tin nghe được bằng ngôn ngữ của mình, sử dụng thông tin ở trong khung, tranh vẽ. + Role- play: Học sinh đóng vai nhân vật trong bài nghe. + Disscussion: Thảo luận vấn đề trong bài theo cặp- nhóm. + Interview: Phỏng vấn nhau về chủ đề vừa nghe dựa trên những gợi ý hoặc hệ thống câu hỏi của giáo viên. + Survey: Học sinh điều tra một số thông tin có chủ đề liên quan đến bài nghe bằng nhưng câu hỏi hoặc gợi ý cho học sinh. Trên đây là một số thủ thuật nghe hiểu để rèn luyện kỹ năng nghe cho học sinh. Ở lớp 6,7 kỹ năng nghe được dạy phối hợp với các kỹ năng khác nên việc giáo viên phải thiết kế các bài tập nghe cho học sinh nghe thường xuyên trong mỗi tiết dạy là cần thiết . Ở lớp 8,9 kỹ năng nghe được dạy ghép với kỹ năng nói, các bài tập nghe đều liên quan đến chủ đề bài học và sử dụng các dữ liệu đã học trong bài nên yêu cầu giáo viên phải thiết kế lại bài tập hoặc nội dung nghe cho hợp lý để học sinh có cơ hội được rèn luyện kĩ năng nghe một cách khoa học. Tuy nhiên việc thiết kế các hoạt động để làm nền tảng và củng cố cho học sinh nghe phải có hiệu quả, phù hợp với trình độ năng lực của các em và đảm bào chuẩn kiến thức kĩ năng của tiết học. Nếu chúng ta thực hiện tốt các phương pháp, thủ thuật và tiến trình dạy nghe như đã nêu trên thì sẽ dần khắc phục mọi khó khăn. 2.3.4. Tiết dạy minh hoạ Unit 6 : The Environment( lớp 9) Lesson 3: Listen I- Objectives: - Luyện kỹ năng nghe hiểu lấy thông tin chính. - Học sinh nghe một đoạn băng về ô nhiễm của đại dương và hoàn thành các thông tin còn thiếu. II- Stages of teaching 1) Pre- listening - Giáo viên giới thiêụ chủ đề bài nghe bằng một số hình ảnh về ô nhiểm đại dương và những ảnh hưởng của nó. Sau đó sữ dụng thủ thuật brain storming yêu cầu học sinh nêu các nhân tố gây ô nhiễm đại dương. (Các em có thể nói bằng Tiếng Việt nếu các em chưa biết Tiếng Anh) gabbages from rivers gabbages from people What causes ocean pollution? gabbages from vessels oil from vessels - Sau đó vào bài bằng các từ mới. + to pump + raw sewage + oil spill + Waste materials. + Ship - Giáo viên đưa ra câu hỏi đoán trước khi nghe: " What causes the ocean pollution? " . Trước khi đưa ra câu hỏi giáo viên cần thiết kế lại bài tập bằng cách thêm vào một số dự kiện để học sinh nghe dể dàng hơn như sau: HOW THE OCEAN IS POLLUTED Firstly: raw sewage is pumped directly into the sea. Secondaly: ..................................................... dropped into the sea. Thirdly: oil spills .......................................................................... Next: waste materials ............................................................... Finally: oil ...................................................................... the land + GV yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, đoán câu trả lời. + HS dính bảng phụ của các em lên bảng. 2) While- listening Cho học sinh nghe băng Lần 1 : Học sinh nghe băng và tìm đáp án ( nghe liên tục ) Hỏi học sinh: " Have you found any causes of pollution?", đi quanh xem các em đã nghe được những gì và so sánh kết quả trong nhóm khoảng hai phút. Lần 2: GV yêu cầu học sinh đọc kỹ các thông tin cho trước trong bảng và sau GV yêu cầu HS so sánh đáp án với bạn lần thứ hai. Nếu có nhóm nào xong thì yêu cầu các em dán câu trả lời lên bảng. Lần 3 : GV yêu cầu học sinh nghe, kiểm tra đáp án của cả lớp và tìm đáp án đúng.( Nếu học sinh không nghe được thì giáo viên tua băng lại cho các em nghe thông tin đó bao giờ được thì thôi.) 3) Post- listening Cho hoc sinh luyện tập nói. 2.4. Hiệu quả của SKKN: Qua một thời gian gần năm năm giảng dạy các tiết nghe hiểu theo những giải pháp đã trình bày ở trên, tôi thấy đề tài có những ưu điểm sau : - Học sinh hứng thú với môn Tiếng Anh và đặc biệt là các em thích thú hơn trong tiết học nghe. Nhiều em hơn tham gia vào bài học dù kết quả nghe chưa cao. - Giờ học sinh động hơn, học sinh có nhu cầu tham dự vào hầu hết các hoạt động khác nhau của giáo viên yêu cầu. -Với việc nghe băng một vài lần, học sinh có thể nắm được thông tin yêu cầu đồng thời phát triển được các kỹ năng phụ khác như: Nghe lướt, khả năng suy luận và đoán nghĩa của từ - GV có thể dể dàng giúp đỡ những học sinh yếu kém tiến bộ. - Với việc dạy một tiết nghe hiểu được áp dụng các biện pháp nêu trên, kết quả kiểm tra nghe của học sinh qua các năm học ở trường tôi như sau: Năm học Kết quả kiểm tra nghe của học sinh * Năm học 2009- 2010 * Năm hoc 2010à 2011 *Năm học 2011 à 2012 *Năm học 2012à 2013 *Năm học 2013à 2014 (tính đến tháng 2/ 2014) Yếu: 81%, Trung bình: 15%, Khá:4% Yếu: 75%, Trung bình: 17% Khá:8% Yếu: 71%, Trung bình: 19% Khá:9%, Giỏi: 1% Yếu: 68%, Trung bình: 20% Khá: 11%, giỏi: 1% Yếu: 66%, Trung bình: 21% Khá: 12%, giỏi: 1% 3. KẾT LUẬN: Với kết quả trên thì ta thấy rỏ ràng là những giải pháp trong đề tài có hiệu quả thực tế rất đáng kể. Đặc biệt, Tất cả các giải pháp đều dể dàng thực hiện vào công tác giảng dạy, vì vậy giáo viên trên huyện chúng ta có thể tham khảo tính hiệu quả của đề tài để áp dụng giảng dạy cho học sinh của mình. Những suy nghĩ của tôi trên đây về việc dạy nghe chỉ là những kinh nghiệm rút ra từ phương pháp cũ và mới qua thực tế giảng dạy và tìm hiểu tài liệu. Có thể còn nhiều thiếu và sai sót, cần được điều chỉnh, bổ sung và thay đổi. Rất mong các cấp xem xét đến hiệu quả của đề tài và nhân rộng để nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cho học sinh trên huyện của chúng ta. Cũng đề nghị các cấp quan tâm hơn đến môn học này vì tác dụng của nó đối với xã hội trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay. Tổ chức nhiều hơn các chuyên đề các cấp để giáo viên có thể học tập, chia sẽ và được tiếp cận với phương pháp mới giúp nâng cao chất lượng môn học. Tạo điều kiện về phòng học bộ môn và phương tiện nghe nhìn cho học sinh có điều kiện luyện nghe người bản ngữ nói. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004- 2008 – Nhà xuất bản giáo dục – Bộ Giáo Dục và Đào Tạo 2007 ) Trang Web GLOBAL EDUCATION. Bulletin of Science ( Trường Đại Học Ngoại Ngữ Huế - chịu trách nhiệm xuất bản: Tiến sĩ Trần Văn Phước- xuất bản năm 2006) The Methodology Course ( của dự án ELTTP do sở Giáo Dục và Đào Tạo Quảng Trị ban hành năm 2003) - Trang Web violet. Hướng Hiệp ngày 23 tháng 2 năm 2014 Người viết Phạm Ngọc Huy PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI ĐỀ TÀI Năm học 2013 - 2014 ----------------------------------- HỘI ĐỒNG KHOA HỌC XÉT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP CƠ SỞ - Đề tài: Những giải pháp nâng cao chất lượng kỹ năng nghe Tiếng Anh cho học sinh THCS trên địa bàn huyện Đakrông. - Họ và tên tác giả: Phạm Ngoc Huy - Chức vụ: Giáo viên - Đơn vị: Trường THCS Hướng Hiệp 1. Điểm cụ thể: Phần Nhận xét của người đánh giá xếp loại đề tài Điểm tối đa Điểm đạt được 1. Tên SKKN và lĩnh vực áp dụng 2 2. Mô tả nội sung, bản chất của sáng kiến 5 3. Tính mới của sáng kiến(trong phạm vi nào) 4 4. Những nội dung mang lại từ việc áp dụng sáng kiến( khối lượng, chất lượng, năng suất, hiệu quả công tác thay dổi như thế nào) được cấp có thẩm quyền công nhận. 5 5. Khả năng phổ biến và nhân rộng 3 6. Thể thức văn bản, chính tả 1 Tổng cộng 20đ 2. Xếp loại: + Loại A: từ 17 đến 20 điểm. + Loại B: từ 14 đến 17 điểm. + Loại C: từ 10 đến 14 điểm. + Loại D: là những đề tài không đạt. Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại : .. Người đánh giá xếp loại đề tài: Chủ tịch hội đồng sáng kiến: (Ký, ghi rõ họ tên) (Kí đóng dấu, ghi rỏ họ tên)
File đính kèm:
- de_tai_SKKN_Giai_phap_nang_cao_chat_luong_ki_nang_nghe_cho_HS_THCS.doc