Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học ở các tiết tổng kết chương, ôn tập Vật lí THCS

 Ôn tập lại những kiến thức đã được học theo một hệ thống là điều hết sức quan trọng trong công tác dạy và học nói chung và Vật lý nói riêng, thông thường khi kết thúc một nội dung cơ bản của một chương hoặc một mạch kiến thức liên quan giữa các bài dạy cần phải có tiết ôn tập để hệ thống lại một cách kịp thời thông qua các bài tập cơ bản bằng nhiều hình thức để học sinh nắm được kiến thức theo một trình tự logic, thông qua tiết ôn tập người giáo viên sẽ biết được quá trình tiếp thu, nắm bắt kiến thức của học sinh như thế nào để từ đó có biện pháp giúp đỡ , bồi dưỡng thêm hoặc điều chỉnh lại phương pháp dạy của mình. Tùy theo tính chất của từng nội dung bài học người giáo viên cần có sự chuẩn bị sao cho phù hợp với nội dung cần ôn tập.

 Vật lí là một môn học khó đối với HS, chính vì vậy nó đòi hỏi người GV phải có PPDH khoa học, lôi cuốn để biến “khó” thành dễ hiểu. Nếu GV không chịu khó đầu tư mà vẫn sử dụng phương pháp truyền thống thì sẽ làm cho tiết học tẻ nhạt, nặng nề đối với HS. Tiết học bình thường dạy đó khó, tiết học tổng kết chương lại càng khó hơn. Do nội dung bài thường dài, toàn bộ kiến thức cơ bản phải được củng cố, khắc sâu, các kiến thức có liên quan cũng cần phải xâu chuỗi, hệ thống lại. Đã vậy tiết học này không có thí nghiệm minh họa nên thường gây tâm lí buồn tẻ đối với HS. Ngoài ra nội dung các bài tổng kết chương thường dài, nếu GV và HS không chuẩn bị chu đáo, các phương tiện dạy học nhằm giúp tiết kiệm thời gian không được sử dụng thì rất khó, để cả thầy lẫn trò có thể cùng nhau đi hết nội dung bài học cần thiết.

 Từ những năm đầu mới thay sách tôi thường lúng túng trước các tiết học này. Nhưng sau vài năm giảng dạy, tự rút kinh nghiệm bản thân kết hợp với học hỏi đồng nghiệp tôi dần rút ra được một số biện pháp hay để khiến tiết học sinh động hơn. Tuy đây chỉ là những kinh nghiệm cá nhân nhưng nhận được sự phản hồi tích cực từ phía học sinh nên tôi cũng mạnh dạn nêu ra, rất mong được sự quan tâm góp ý của các thầy, cô đồng nghiệp để giúp tôi có thêm nhiều kinh nghiệm quý báu.

 

doc23 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 3843 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học ở các tiết tổng kết chương, ôn tập Vật lí THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hứng minh trước đó để giải nó một cách nhanh chóng. Vì vậy yêu cầu học sinh phải hiểu bài một cách sâu sắc để vận dụng kiến thức ở mức độ cao.
Ví dụ: Một cục nước đá khi tan hoàn toàn thành nước thì khối lượng và thể tích của nó thay đổi như thế nào so với ban đầu?
	A. Khối lượng tăng lên,thể tích không đổi.
	B. Khối lượng giảm đi, thể tích không đổi.
	C. Khối lượng không đổi, thể tích tăng lên.
	D. Khối lượng không đổi, thể tích giảm đi.
b/ Thống kê số tiết ôn tập vật lý cấp THCS.(Theo phân phối chương trình vật lí dựa theo nội dung giảm tải của phòng GD&ĐT Thăng Bình vào ngày 09/02/2012)
 Tổng số tiết ôn tập, tổng kết chương môn vật lý cụ thể ở các khối lớp như sau:
 *Khối 6: 03 tiết ôn tập, 02 tiết tổng kết chương 
 ( HKI: 02 tiết ôn tập, 0 tiết tổng kết chương – HKII: 01 tiết ôn tập, 02 tiết tổng kết chương).
 Nội dung chủ yếu của các tiết dạy này là cũng cố những kiến thức ở mức độ khái niệm đơn giản có liên quan đến các đại lượng vật lý hoặc các hiện tượng vật lý. Dạng bài tập củng cố chủ yếu là dưới dạng định tính, một số bài tập định lượng đơn giản thuộc loại bài tập dượt.
*Khối 7: 01 tiết ôn tập, 03 tiết tổng kết chương ( HKI: 0 tiết ôn tập, 02 tiết tổng kết chương – HKII: 01 tiết ôn tập, 01 tiết tổng kết chương). Nội dung chủ yếu của các tiết học này là củng cố và khắc sâu một số kiến thức liên quan đến hiện tượng vật lý, đại lượng vật lý và bước đầu làm quen với định luật vật lý. Các bài tập củng cố kiến thức chủ yếu dưới dạng bài tập định tính và câu hỏi thực tế.
*Khối 8: 04 tiết ôn tập, 02 tiết tổng kết chương ( HKI: 02 tiết ôn tập, 0 tiết tổng kết chương – HKII: 02 tiết ôn tập, 02 tiết tổng kết chương). Nội dung chủ yếu ở các tiết học này là củng cố khắc sâu về mặt định lượng trong việc hình thành các khái niệm và định luật vật lý. Dạng bài tập trong chương trình vật lý 8 chủ yếu là bài tập định lượng.
*Khối 9: 16 tiết ôn tập (kể cả các tiết bài tập trong sách giáo khoa ), 03 tiết tổng kết chương ( HKI: 10 tiết ôn tập, 01 tiết tổng kết chương – HKII: 06 tiết ôn tập, 02 tiết tổng.kết.chương)
 Vật lý THCS, yêu cầu cụ thể của chương trình là rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp các thông tin và dữ liệu thu thập được, khả năng tư duy trừu tượng, khái quát trong xử lý thông tin để hình thành khái niệm, rút ra quy tắc, quy luật và định luật vật lý. Các kiến thức chủ yếu trong các tiết ôn tập, tổng kết là khắc sâu một cách có hệ thống những quy tắc, định luật, quy luật vật lý, dạng bài tập ở đây chủ yếu là bài tập định lượng có tính tổng hợp.
c/ Những khó khăn cơ bản khi dạy kiểu bài ôn tập Vật lý THCS.
 Hiện nay, khi dạy các bài ôn tập Vật lý, giáo viên thường rất khó khăn khi soạn giáo án, soạn như thế nào để vừa đảm bảo được mục tiêu đề ra lại vừa đảm bảo được về mặt thời gian của một tiết học, nếu không có sự đầu tư chuẩn bị từ trước thì hầu như tiết ôn tập được xem như quá trình dò lại bài cũ, hay liệt kê lại kiến thức mà chưa làm rõ, chưa khái quát cũng như hệ thống lại được toàn bộ nội dung hoặc mối liên hệ của những kiến thức có trong chương. Đặc biệt là một số tiết ôn tập (các tiết đã được điều chỉnh) theo PPCT thì sách giáo khoa và sách giáo viên không đề cập đến tiết này nên việc lựa chọn nội dung ôn tập càng khó khăn hơn cho giáo viên. Một vấn đề nữa đó là đối tượng học sinh của chúng ta thường rất đa dạng, ít đồng đều về mặt nắm bắt kiến thức, đây là một vấn đề tác động không nhỏ trong quá trình dạy tiết ôn tập. 
 ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC KIỂU BÀI ÔN TẬP VẬT LÝ CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ.
 Thông qua các đợt tập huấn chuyên đề về công tác đổi mới phương pháp dạy học, theo định hướng này thì người giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hoạt động học tập và giữ vai trò chủ đạo. Còn học sinh là chủ thể nhận thức, biết cách tự học, tự rèn luyện. Sự chủ động trong học tập thể hiện ở chỗ học sinh tự giác, sẵn sàng tham gia vào hoạt động học tập dưới sự điều khiển của giáo viên, học sinh hứng thú, hào hứng trong quá trình học tập, chủ động trao đổi với nhau và với giáo viên nhiều hơn, không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà luôn lật đi lật lại vấn đề
 Từ những vấn đề trên, khi dạy các bài ôn tập, tổng kết Vật lý THCS, từ kinh nghiệm của bản thân tôi vận dụng theo một quy trình như sau:
 Qui trình thực hiện khi dạy bài ôn tập vật lý: 
* Bước 1: Chuẩn bị. 
 - Ở tiết học trước đó, giáo viên đề nghị học sinh ôn tập các kiến thức cần vận dụng, nếu là tiết tổng kết chương thì học sinh phải tự làm trước phần tự kiểm tra, đối với phần vận dụng tùy theo khả năng nhưng phải xem hoặc làm trước ở nhà. Nếu là tiết ôn tập mà nội dung bài tập đã cho sẵn trong sách giáo khoa giáo viên cũng yêu cầu học sinh phải làm trước ở nhà. Trong trường hợp tiết ôn tập thuộc tiết thêm theo phân phối chương trình hoặc không có nội dung quy định sẵn thì giáo viên phải lựa chọn một số câu hỏi, bài tập phù hợp và làm thành đề cương ôn tập cụ thể để học sinh có cơ sở ôn tập trước.
 Ví dụ: Vật lý 6 tuần 8 có thêm tiết ôn tập, giáo viên phải ra đề cương theo từng đơn vị kiến thức cơ bản thuộc 8 bài học trước đó (không nhất thiết bài nào cũng phải có câu hỏi hoặc bài tập mà ra theo hệ thống và có liên quan với nhau). Khi soạn các nội dung cho tiết học này nên phân bố theo từng cấp độ nhận thức và phải phù hợp với trình độ của học sinh trong mỗi lớp. Có thể soạn hệ thống câu hỏi ôn tập cho tiết này theo trình tự sau:
1/ Tự kiểm tra:
	+ Nêu trình tự các bước đo độ dài của một vật.
	+ Nêu cách đo thể tích của một vật rắn không thấm nước có hình dạng phức tạp.
	+ Khối lượng của một vật cho ta biết gì. Đơn vị khối lượng thường dùng.
	+ Thế nào là hai lực cân bằng? Khi tác dụng lực lên một vật nó thường gây ra những biến đổi nào?
	+ Trọng lực là gì? Nêu phương và chiều của trọng lực. Đơn vị lực.
2/ Vận dụng:
* Trắc nghiệm: 
Câu 1: Đo chiều dài của SGK Vật lý 6 bằng thước đo có GHĐ là 30cm và ĐCNN là 2mm. Kết quả nào ghi sau đây là đúng ?
A. 23,8 cm ; B. 23,9 cm ; C. 24 cm ; D. 24,1 cm
Câu 2: Khi sử dụng bình tràn, bình chứa và bình chia độ để đo thể tích của vật rắn không thấm nước, thì thể tích của vật rắn bằng:
A. Thể tích nước trong bình tràn khi chưa thả vật rắn vào. 
B. Thể tích nước trong bình tràn sau khi đã thả vật rắn vào.
C. Thể tích nước tràn từ bình tràn sang bình chứa.
D. Cả 3 phương án A, B, C đều sai.
Câu 3: Trong các câu sau, câu nào đúng, câu nào sai ?
1. Khối lượng của một hộp kẹo chỉ số kẹo trong hộp đó
2. Lực do dòng nước đẩy thuyền trôi và lực do sợi dây neo thuyền lại là hai lực cân bằng.
3. Lực làm cho vật đang chuyển động chậm dần rồi dừng lại.
4. Nếu không chịu tác dụng của không khí thì vật nặng rơi theo phương thẳng đứng, còn nếu chịu tác dụng của không khí thì vật nặng có thể rơi theo phương không thẳng đứng.
* Tự luận:
Bài 1: Em hiểu các con số sau như thế nào ?
A. Cà Mau 36 Km ( Biển báo cột cây số trên đường quốc lộ).
B. 0,5 lít ( Ghi trên vỏ chai nước khoáng)
C. 200g ( Ghi trên vỏ gói kẹo).
Bài 2: Treo một vật nặng bằng một sợi dây.
a) Có những lực nào tác dụng lên vật? Tại sao vật có thể đứng yên?
b) Khi cắt dây thì có hiện tượng gì xãy ra? Tại sao ?
Bài 3: Một cái tháp nhỏ và đặc bằng sứ được để chìm trong một bể cá cảnh có dạng hình hộp chữ nhật. Chỉ cần dùng một thước đo độ dài có ĐCNN phù hợp là xác định được thể tích của cái tháp đó, em hãy trình bày cách làm trên.
 - Khi học sinh đã có được hệ thống câu hỏi ôn tập trước thì giáo viên yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị trước, ghi chép ra những điều chưa hiểu, những câu chưa làm được  để đến lớp trao đổi thêm với bạn bè hoặc hỏi thêm giáo viên. 
 - Tùy theo nội dung bài học cần phải có hoạt động nhóm, giáo viên nên phân công các nhóm học tập từ trước để không mất thời gian ở tiết học phải thực hiện khâu này. 
 - Để có nội dung phù hợp và mang tính hệ thống đúng đặc trưng của kiểu bài ôn tập, tổng kết giáo viên phải có sự lựa chọn trước các câu hỏi hoặc bài tập khác nhau, để yêu cầu học sinh phải thực hiện trong tiết học đó mà không nhất thiết phải làm hết tất cả nội dung mà sách giáo khoa trình bày trong bài ôn tập hoặc tổng kết. Trong đó bao gồm:
* Các bài tập từ đơn giản đến phức tạp.
* Các bài tập định tính, bài tập tính toán, các bài tập trắc nghiệm khách quan về các vấn đề lý thuyết ( Mức độ biết và hiểu) và các bài tập tự luận ( thường là các bài tập tính toán hoặc giải thích một vấn đề nào đó).
 * Các bài tập có nhiều cách giải khác nhau.
 * Các bài tập để ra thêm cho học sinh khá và giỏi, trong khi chờ đợi các học sinh khác chưa giải xong bài tập mà giáo viên ra chung cho cả lớp hoặc kết hợp chung trong một bài tập nhưng những câu hỏi này phải nằm ở ý cuối của bài.
Chú ý: Đối với các tiết ôn tập mà kiến thức cần được củng cố chủ yếu là các câu hỏi lý thuyết và bài tập định tính thì hệ thống câu hỏi ôn tập phải được chọn lọc như là một bài tập lớn có liên quan mật thiết với nhau và hỗ trợ cho nhau theo một trình tự logic. Do đó khi lựa chọn nội dung cho tiết ôn tập này chúng ta ra khoảng từ 5 đến 7 câu trắc nghiệm và từ 3 đến 5 bài tập định tính (những câu hỏi thực tế) và tuân theo một quy trình như sau: 
 Nhận biết - Thông hiểu - Vận dụng .
 Yêu cầu trên là rất quan trọng để tiết học thành công, nếu giáo viên và học sinh có sự chuẩn bị tốt phần này thì nội dung tiết học sẽ đảm bảo được về mặt thời gian và tiết học sẽ phong phú, sôi nổi hơn.
 * Bước 2: Lên lớp 
 + Hoạt động 1: Phần đầu của tiết học khoảng 15 đến 20 phút, giáo viên đề nghị học sinh cả lớp hệ thống lại những kiến thức cơ bản đã được học, đồng thời kết hợp giải khoảng từ 5 đến 7 câu hỏi trắc nghiệm khách quan, sau khoảng 10 phút giáo viên đề nghị các nhóm tự đặt câu hỏi để mời nhóm khác trả lời, khi đặt câu hỏi lưu ý HS kết hợp một câu hoặc một ý trong phần tự kiểm tra kết hợp với một câu trắc nghiệm. Nhóm đặt câu hỏi phải nhận xét câu trả lời của nhóm bạn.
 Trong các trường hợp có sự không thống nhất giữa hai nhóm thì giáo viên yêu cầu một nhóm khác bổ sung.
 Trong trường hợp nếu lớp học đó có ý thức tự học cao, chất lượng tương đối đồng đều, thì ngay từ đầu tiết học giáo viên chỉ cần đặt vấn đề và yêu cầu học sinh nêu những khó khăn khi làm các câu hỏi loại này, bài nào chưa làm được, câu hỏi nào còn thắc mắc thì đứng tại chỗ trao đổi chung cho cả lớp và nhờ sự giúp đỡ ở bạn bè hoặc giáo viên. Nếu câu hỏi nào khó thì giáo viên trợ giúp hoặc gợi ý để học sinh cả lớp cùng tập trung trả lời. Kết thúc phần câu hỏi này giáo viên chỉ cần kiểm tra xác suất khoảng 2 em trả lời 2 câu hỏi bất kỳ trong số những câu hỏi chưa đưa ra thảo luận là hoàn thành nội dung trả lời những câu hỏi lý thuyết này. Nếu giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm cùng thảo luận để đưa ra phương án trả lời các câu hỏi trắc nghiệm khách quan trên thì khi trình bày kết quả nên để các nhóm cử đại diện trả lời và các nhóm khác đánh giá, nếu cần thiết giáo viên có thể gợi ý để các nhóm tranh luận với nhau khi không đồng nhất phương án lựa chọn. 
Trong thời gian làm các câu hỏi thuộc dạng này giáo viên có thể dùng phương pháp “ Công não” để trả lời khoảng 2 đến 3 câu nhằm thay đổi không khí học tập của lớp ( nên dùng cho những câu hỏi mà học sinh có sự lựa chọn khác nhau về phương án của mình).
* Ví dụ: Trong cùng một câu hỏi, có từ 2 học sinh chọn hai phương án trả lời khác nhau trong đó có 1 học sinh chọn đúng, sau khi không còn học sinh nào cho thêm phương án khác giáo viên đặt vấn đề: Trong hai phương án trả lời trên có một đáp án đúng, vậy có bao nhiêu em chọn đáp án của bạn thứ nhất, bao nhiêu em chọn đáp án của bạn thứ hai ? Sau khi học sinh giơ tay lựa chọn giáo viên ghi lại số lượng học sinh lựa chọn ở mỗi phương án lên bảng. Lúc này không khí học tập của lớp sẽ sôi nổi hơn, học sinh cả lớp sẽ tập trung hơn để xem nhóm nào thắng. Khi đó giáo viên sẽ hỏi đại diện mỗi nhóm giải thích tại sao lại chọn phương án đó, cuối cùng giáo viên thông báo kết quả cuối cùng.
+ Hoạt động 2: Tiếp theo giáo viên đề nghị học sinh cả lớp cùng giải khoảng 2 đến 3 bài tập tự luận, tùy theo số bài và trình độ học sinh mà ấn định thời gian cho phù hợp. Các bài tập tự luận định tính hay định lượng tùy theo từng chương, từng phần hoặc khối lớp để lựa chọn. Khi chọn ra các bài tập nên đi từ đơn giải đến phức tạp sao cho phù hợp và có tác dụng phát triển ở nhiều đối tượng học sinh năng lực vận dụng kiến thức và kỹ năng một cách tích cực và sáng tạo trong việc giải các bài tập này. Cần lưu ý trước khi học sinh tự giải mỗi bài tập có tính tổng hợp, giáo viên nên yêu cầu 1 đến 2 em phải nêu được những kiến thức cần phải vận dụng để giải bài tập đó. Yêu cầu này sẽ giúp học sinh hệ thống được kiến thức có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau.
 Giáo viên để cho từng học sinh tự lực giải mỗi bài tập tự luận hoặc theo nhóm trong khoảng thời gian cho phép và phù hợp với mức độ khó, dễ của bài, sau đó đề nghị một học sinh đứng tại chỗ trình bày cách giải hoặc nêu đáp số trước cả lớp ( nêu ngắn gọn) và đề nghị các học sinh khác nhận xét cách giải của học sinh này cũng như nêu phương án giải của mình nếu có. Nếu việc tìm ra cách giải khác là khó đối với học sinh thì giáo viên nên tổ chức thảo luận theo nhóm để mỗi nhóm đề xuất cách giải khác. Sau đó một vài nhóm trình bày cách giải này cho cả lớp. Các nhóm khác nhận xét và đánh giá ưu, nhược điểm của cách giải này 
 Đối với học sinh khá, giỏi sẽ giải mỗi bài tập xong trước các học sinh khác, giáo viên có thể đề nghị các em này tìm cách giải khác hoặc giải một bài tập khác có phần phức tạp hơn mà giáo viên đã có sự chuẩn bị.
+ Hoạt động 3: Cuối mỗi bài, giáo viên tổng kết và nêu cách giải hợp lý và ngắn gọn nhất cũng như đáp số đúng của bài tập đó.
 VI. KẾT QUẢ :
 Bằng việc áp dụng các biện pháp đã nêu trên, tôi cảm nhận được tiết dạy trở lên lôi cuốn, hấp dẫn học sinh hơn rất nhiều. Ở phần tự kiểm tra các em được thoải mái trao đổi, thảo luận. Giáo viên chỉ là trọng tài nên các em đã bớt e dè, hăng hái bộc lộ suy nghĩ của mình. Qua đó tôi cũng giúp các em rèn được tính mạnh dạn trước tập thể. Đặc biệt ở phần trò chơi, với sự trợ giúp của các phương tiện hiện đại, hình ảnh sinh động trên màn hình, các em đã thật sự thích thú, sôi nổi tham gia. Năm học vừa qua tôi đã tiến hành chấm tất cả các phiếu học tập mà tôi đã giao cho các em làm sau tiết tổng kết chương nhằm mục đích khảo sát kết quả của những thử nghiệm của mình. Sau đây là kết quả:
KHỐI
SĨ SỐ
ĐIỂM 0 - 2
ĐIỂM 3 - 4
ĐIỂM 5 - 7
ĐIỂM 8 – 10
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7
124
2
1,6
8
6.45
88
69,35
26
20,96
9
115
1
0,87
7
6.1
87
75.65
20
17,39
 Tuy nhiên đối với một số ít học sinh quá kém (gần như thiểu năng trí tuệ) thì tôi nhận thấy các biện pháp trên chưa phát huy nhiều tác dụng. Ngoài ra do đặc điểm tâm lí lứa tuổi của các em: thích các hoạt động sôi nổi, thích thi đua và khẳng định bản thân nên một số ít học sinh khi tham gia trò chơi còn gây ồn, thậm chí có tính cay cú, hiếu thắng. 
 Với thời gian thử nghiệm chưa nhiều, trong những năm tiếp theo tôi sẽ cố gắng phát huy những ưu điểm và tìm hiểu học hỏi thêm để khắc phục những hạn chế nói trên nhằm nâng cao hiệu quả của các tiết dạy tổng kết chương.
Vậy rất mong có được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!
VII. KẾT LUẬN 
1, Bài học thứ nhất:
 Không nên coi tiêt tổng kết chương, ôn tập là một tiết dạy học làm bài tập trong đó không có sự trao đổi, thảo luận của các học sinh trong quá trình giải mỗi bài tập, từng học sinh loay hoay giải bài tập, sau đó giáo viên trình bày lời giải của mình trên bảng và cho học sinh ghi lại, cách dạy học như vậy sẽ rất tẻ nhạt, nhàm chán không chỉ với học sinh khá, giỏi mà ngay cả đối với học sinh yếu kém vì không có tác dụng giúp các em hiểu sâu sắc hơn các kiến thức và kỹ năng cần vận dụng, không giúp họ phát triển khả năng tự lực, tích cực và sáng tạo trong việc giải quyết các tình huống mà bài tập đề ra.
1, Bài học thứ hai: + Về ưu điểm: 
 - Rèn luyện ở học sinh ý thức về sự cần thiết phải có sự chuẩn bị những kiến thức cơ bản để cùng tham gia trao đổi, thảo luận trên lớp hay trong những hoạt động học tập ngoài tiết học.
 - Từng học sinh của lớp đều phải thực hiện các hoạt động giải bài tập, nghĩa là phải vận dụng kiến thức và kỹ năng để giải quyết các tình huống cụ thể khác nhau. Do đó giúp các em hiểu rõ hơn cũng như củng cố và khắc sâu các kiến thức và kỹ năng này.
 - Phân loại được học sinh trong lớp về trình độ vận dụng kiến thức và kỹ năng đã học. Nhờ đó giáo viên có thể ghi nhận học sinh nào còn yếu, học sinh nào khá, giỏi để có kế hoạch giúp đỡ phù hợp và có hiệu quả trong từng tiết bài tập, ôn tập và trong toàn bộ quá trình dạy học sau đó.
 - Tạo ra cơ hội để học sinh trao đổi, thảo luận nhóm (Đặt câu hỏi và nhận xét với nhau, tìm các cách giải khác) . Qua đó phát triển ở học sinh tinh thần hợp tác, phê phán và sáng tạo trong học tập.
3, Bài học thứ ba: + Về hạn chế: 
 - Để tổ chức tốt một tiết ôn tập có hiệu quả thì trước hết giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị tương đối công phu, sao cho các bài tập được lựa chọn để yêu cầu học sinh thực hiện trên lớp phải có tác dụng phát triển ở học sinh khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng để giải quyết các tình huống cụ thể ở mỗi bài tập, nghĩa là để giải được bài tập này học sinh phải tích cực và sáng tạo. Nói cách khác là trong những bài tập để ôn tập thì nội dung của nó phải phủ kín toàn bộ những kiến thức cơ bản của các phần hoặc chương đã được học và phù hợp với mọi trình độ học sinh của lớp. Điều này cũng đòi hỏi giáo viên phải nắm vững trình độ học sinh ở mỗi lớp để từ đó đề ra nhưng phương án hợp lý trong việc lựa chọn những kiến thức để đưa vào tiết học.
 - Giáo viên một mặt cần chọn các bài tập để tạo ra cơ hội cho học sinh trao đổi, thảo luận nhóm, tạo ra các tương tác giữa học sinh với học sinh và giữa giáo viên với học sinh, nhưng mặt khác làm việc theo nhóm lại đòi hỏi có nhiều thời gian nên sẽ rất hạn chế trong khoảng thời gian 45 phút của một tiết học. Mâu thuẩn này đòi hỏi giáo viên có sự cân đối thời gian sao cho hợp lý các hoạt động học tập của học sinh, trong đó tùy theo từng đối tượng học sinh của mỗi lớp mà ưu tiên loại hoạt động nào.
 VIII. KIẾN NGHỊ 
 Mỗi năm học Phòng giáo dục và ĐT nên tổ chức việc sinh hoạt cụm chuyên môn nghiệp vụ (báo cáo chuyên đề về phương pháp giảng dạy,dạy một tiết minh họa ) đúng vào tiết tổng kết chương hoặc ôn tập. Bồi dưỡng chuyên môn ở đầu hè bằng việc báo cáo chuyên đề cho giáo viên bộ môn trong huyện, ít nhất là một lần /năm, nhằm triển khai các kinh nghiệm đã được xếp loại cao. Từ đó đội ngũ giáo viên cùng nhau được học hỏi kinh nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm cũng như tháo gỡ những khó khăn gặp phải khi giảng dạy . Đặc biệt là những tiết tổng kết chương hoặc ôn tập.
 IX. PHẦN PHỤ LỤC 
 Đi sâu nghiên cứu các phương pháp dạy học mới hiện nay về tiết tổng kết chương tôi nhận thấy hiện nay các nhà lí luận về giáo dục đang triển khai vận dụng sơ đồ tư duy để dạy tiết tổng kết chương .Tuy nhiên do giới hạn của đề tài, đồng thời việc vận dụng sơ đồ tư duy đang trong giai đoạn áp dụng thử nghiệm, bản thân chưa có kinh nghiệm nên tôi chưa đề cập đến ở đây. Vì vậy phần vận dụng sơ đồ tư duy có thể là phần tiếp theo của chuyên đề này !
 Ví dụ : Sơ đồ tổng kết chương I, vật lí 9
 X. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn vật lí - Bộ giáo dục và đào tạo.
Một số vấn đề về đổi mới PPDH ở trường THCS môn vật lí - Bộ giáo dục và đào tạo
Sách giáo viên vật lí 6, SGV vật lí 7, SGV vật lí 8, SGV vật lí 9 - Bộ giáo dục và đào tạo.
Tự kiểm tra kiến thức vật lí THCS (điện học, điện từ học, quang học, bảo toàn và chuyển hóa năng lượng) – Mai Lễ
Tự kiểm tra kiến thức vật lí THCS ( cơ học, nhiệt học) – Mai Lễ
Giải toán và trắc nghiệm vật lí 8 –- Bùi Quang Hân Nguyễn Duy Hiền- Nguyễn Tuyến.
Bài tập cơ bản và nâng cao vật lí 7 THCS - Nguyễn Thị Hồng Mỹ.
XI. MỤC LỤC
 I. Tên đề tài trang1
 II. Đặt vấn đề trang 1
 III .Cơ sở lí luận trang 2
 IV. Cơ sở thực tiễn trang 3
 Nội dung nghiên cứu trang 4 
 VI. Kết quả trang 19
 VII Kết luận trang 19
 IIX. Kiến nghị trang 20
 IX. phần phụ lục trang 21
 X. Tài liệu tham khảo trang 22

File đính kèm:

  • docskkn.doc
Sáng Kiến Liên Quan