Sáng kiến kinh nghiệm Dạy và học từ vựng môn Anh văn ở trường THCS như thế nào để đạt hiệu quả
Nhận thức tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân Việt Nam trong xã hội hiện đại. Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp giảng dạy của ngành, trường THCS Thạnh Đông B đang thực hiện chủ trương cải tiến phương pháp dạy học ở tất cả các môn học.
Tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và hiểu biết của mình về cách dạy và học từ vựng môn Anh văn ở trường THCS như thế nào để đạt hiệu quả cao đối với một ngôi trường còn nhiều khó khăn.
Trong thời đại ngày nay, thời đại bùng nổ khoa học kỹ thuật và thông tin thì việc học Ngoại Ngữ để giao tiếp với các nước khác trên thế giới là một điều hết sức cần thiết, Ngoại ngữ là một môn học tương đối khó đối với học sinh, đòi hỏi học sinh phải có lòng say mê học bộ môn, yêu thích Tiếng Anh, có hứng thú học Tiếng Anh.
. Vì thế giờ Tập làm văn không đạt yêu cầu như mong muốn. Làm thế nào để giờ dạy học Tập làm văn miệng lớp 4 đạt hiệu quả? Học sinh hứng thú học tập? Đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học là tích cực hoá hoạt động của học sinh, hình thành cho các em khả năng học tập và giao tiếp như mục tiêu môn tiếng Việt đề ra. Với trăn trở băn khoăn đó, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra một số biện pháp “phương pháp dạy văn miêu tả lớp 4” và coi đây là một vấn đề của tôi quan tâm hơn kiểu bài này với mong muốn góp một phần nhỏ của mình giúp học sinh và giáo viên lớp 4 có một giờ dạy – học Tập làm văn miệng đạt kết quả cao. Đặc biệt giúp học sinh nói được một đoạn văn, một bài văn đạt kết quả tốt hơn. Phân môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kiến thức sử dụng Tiếng Việt (Nghe nói đọc viết) để hình thành và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, tri thức sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phân môn Tập Làm Văn lớp 4 chú trọng vào 2 loại văn kể chuyện và văn miêu tả trong đó văn miêu tả chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống như khi sáng tác văn chương, văn học truyện ngắn, truyện đài bút kí... hay cả khi viết văn bản cũng như viết thư nhiều khi người ta cũng xen vào các đoạn miêu tả. Có thể nói rằng văn miêu tả là thể loại văn góp phần nuôi dưỡng và phát triển mối quan tâm của các em với thiên nhiên và cuộc sống. Nhằm khêu gợi cho các em lòng yêu thích cái đẹp và khả năng phát triển ngôn ngữ. Muốn dạy tốt có hiệu quả các tiết Tập làm văn miêu tả ở lớp 4 không thể không nghiên cứu sâu về văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả. Phần II: Nội dung I. Thực trạng dạy và học tập làm văn lớp 4 ở trường tiểu học và học tập ở trường 1. Thuận lợi: * Về giáo viên : Đội ngũ giáo viên trẻ khoẻ nhiệt tình trong công tác giảng dạy đảm bảo trình độ chuẩn và trên chuẩn. Giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy học, bám chặt nội dung trong sách giáo khoa, biết kệt hợp nhiều phương pháp dạy học. Biết tổ chức dưới mọi hình thức hoạt động cho học sinh tự chiếm lĩnh tri thức. Tham gia dự giờ thường xuyên. Sinh hoạt chuyên môn đúc rút kinh nghiệm. * Về phía học sinh : các em đi học đều đảm bảo đúng độ tuổi, ham học. Các điều kiện dạy học tương đối đạt, tài liệu học sinh đầy đủ. Chính quyền địa phương và phụ huynh quan tâm đến việc học của học sinh. Những khó khăn hạn chế : * Đối với giáo viên : Một số giáo viên việc đổi mới phương pháp còn chậm.chưa linh hoạt trong dạy học. + Một số giáo viên còn làm việc một cách máy móc, chưa chủ động trong việc tổ chức các hoạt động dạy học. * Đối với học sinh : + Trình độ học sinh không đồng đều, vốn từ ngữ và khả năng diễn đạt còn yếu. + Học sinh có nhiều em còn rụt rè, thiếu tự tin trong lúc học. + Khâu luyện viết học sinh còn làm theo mẫu, khả năng tự tìm ra cách đọc viết còn yếu, đặc biệt trong luyện đọc viết còn yếu + Học sinh học còn lệ thuộc vào giáo viên, tìm hiểu nội dung bài và giải nghĩa từ còn gặp nhiều khó khăn. + Một số học sinh viết chậm, chưa chưa thành câu. 3. Về SGK Mục tiêu của phân môn: Qua môn học này nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng làm văn. Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, tư duy lôgíc, bồi dưỡng tâm hồn cảm xúc thẩm mỹ và hình thành nhân cách cho học sinh. Được trực tiếp dạy lớp 4 tôi thấy về nội dung sách giáo khoa mới có những điểm mới so với sách giáo khoa cũ. Cấu trúc chương trình Tiểu học lớp 4 mới mỗi tuần 2 tiết cả năm 62 tiết còn lớp 4 cũ mỗi tuần 1 tiết kỳ 2: 2 tiết cả năm 49 tiết. Thời lượng học Tập làm văn mới tăng lên rất nhiều so với lớp 4 cũ. Lớp 4 mới không có thể loại thuật chuyện và tả cảnh như lớp 4 cũ nhưng thêm vào đó là loại văn bản khác phục vụ cho đời sống giao tiếp của học sinh. Bài Tập làm văn mới có nhiều kiểu dạng còn lớp 4 cũ chỉ có một kiểu dạng duy nhất đó là đề bài có sẵn. ở lớp 4 cũ trọng tâm là dạy nói viết thành một bài văn hoàn chỉnh còn ở lớp 4 mới được xây dựng từng công đoạn một cách chắc chắn rồi sau đó mới liên kết thành một bài văn hoàn chỉnh. Vì thế chú trọng của Tập làm văn lớp 4 mới là chú trọng dạng đoạn văn và dạy kĩ về các loại đoạn văn cho từng thể loại. Tuy dễ làm bài hơn song kiến thức về văn miêu tả của học sinh đang còn hạn chế nên kết quả làm bài của học sinh chưa cao. Về học sinh: Kiến thức kỹ năng phân môn Tập làm văn lớp 4 yêu cầu cao hơn rất nhiều so với lớp 1, 2, 3 nên đây cũng là khó khăn đối với học sinh. Hơn nữa các em hầu hết là con em nông dân nên điều kiện học tập của các em rất hạn chế. Sách vở các môn học chính chưa đủ cho các em chưa nói gì đến tài liệu tham khảo mà môn Tập làm văn thì rất cần thiết. Việc học văn miêu tả của đại đa số học sinh còn bị hạn chế rất nhiều kể từ việc nắm vững và vận dụng các kiểu bài miêu tả tới việc bố cục, hành văn, từ đặt câu đến lỗi chính tả. Khuyết điểm lớn nhất là bệnh công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu chân thực trong học văn miêu tả. Làm văn miêu tả học sinh thường vay mượn tình ý của người khác, thường là một bài văn mẫu nào đó. Nói cách khác, học sinh thường sẵn sàng học thuộc một bài văn mẫu, đoạn văn mẫu nào đó, khi làm bài các em sao chép ra và biến thành bài làm của mình. Các em miêu tả còn hời hợt, chung chung, không có một sắc thái riêng biệt của một đối tượng tả. Bài như thế đọc lên ta thấy nhợt nhạt, mờ mờ. Về giáo viên: Một số giáo viên khi dạy văn miêu tả để đối phó với học sinh làm bài kém để bảo đảm chất lượng khi kiểm tra thi cử nhiều giáo viên cho học sinh đọc bài làm văn mẫu để các em gặp đầu bài tương tự cứ thế mà chép ra. Ra đề bài Tập làm văn miêu tả không cần biết có thích hợp với học sinh hay không. Một thiếu sót khác nữa chú trọng dạy lý thuyết, coi nhẹ luyện kỹ năng. Từ thực trạng đó tôi luôn băn khoăn và lo lắng đầu năm tôi đã tổ chức khảo sát chất lượng lớp tôi với đề bài: “Em hãy tả cái trống trường em”. Kết quả: Số bài Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 28 3 11 6 19,5 14 50 5 19,5 Với kết quả đó tôi thấy chất lượng môn Tập làm văn đang còn rất thấp. Tôi cố gắng tìm tòi học hỏi đồng nghiệp và tìm ra cho mình một biện pháp thích hợp. II. Các biện pháp chủ yếu 1. Lựa chọn phương pháp Xác định dạy học là một nghề sáng tạo tôi luôn trăn trở với từng tiết dạy, dạy như thế nào là thành công nhất. Qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy rằng để có một giờ dạy tốt cần rất nhiều yếu tố. Phương pháp và hình thức dạy học là một trong những yếu tố quan trọng. Xã hội ngày càng phát triển để theo kịp sự phát triển đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải thật sự thấm nhuần đổi mới phương pháp dạy học. Xác định được tầm quan trọng của việc dạy học là đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo. Người giáo viên thực sự là người tổ chức hướng dẫn, còn học sinh là chủ thể của những hoạt động đó có như thế mới phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay. Tâm đắc với điều đó trước khi lên lớp tôi luôn soạn bài, nghiên cứu kỹ bài, tùy vào từng bài, từng nội dung cụ thể để lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp nhất. 2. Phân loại đối tượng học sinh Tập làm văn là một trong những phân môn thể hiện hoạt động giao tiếp. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải biết vai trò của mình trong hoạt động giao tiếp phải biết được những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, trình độ của học sinh lớp mình. Ngay từ đầu nhận lớp tôi đã phân loại ra từng đối tượng học sinh để có biện pháp dạy học thích hợp. Đối với học sinh khá giỏi ngoài những bài tập trong sách giáo khoa tôi còn ra thêm các bài tập khác để nâng cao dần kiến thức. Đối với học sinh yếu kém cần giảng giải cho các em nhiều hơn, có thể tổ chức cho các em nhóm học tập, học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu. 3. Giúp học sinh miêu tả chân thực Tính chân thực đòi hỏi bài văn miêu tả phải có các chi tiết sát thực tả đúng bản chất của đối tượng miêu tả, thể hiện được những nét đẹp đẽ, đúng đắn trong tư tưởng, tình cảm của học sinh khi các em đánh giá bộc lộ cảm xúc của mình đối với đối tượng miêu tả. Nếu đối tượng miêu tả có những mặt xấu, mặt tiêu cực giáo viên cần giúp học sinh dần dần nhận ra những mặt cần phải phê phán và có thái độ phê phán đúng mức. Chính qua việc làm như vậy chúng ta đã giúp học sinh luyện tập cách nhìn nhận phân tích cuộc sống góp phần hình thành nhân cách người học sinh xã hội chủ nghĩa. Muốn miêu tả chân thực đối với học sinh cần bảo đảm yêu cầu quan sát trực tiếp khi học và làm văn miêu tả. Đối với học sinh lớp 4 vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả của học sinh quá nghèo nàn, sơ lược. Muốn giúp các em làm bài chân thật và phong phú, không có con đường nào khác ngoài việc tổ chức cho các em quan sát trực tiếp. Yêu cầu này đòi hỏi phải tạo điều kiện cho các em quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả là công việc thuộc nguyên tắc khi dạy văn miêu tả. Chỉ trên cơ sở có sự thu nhận trực tiếp các nhận xét, ấn tượng, cảm xúc của mình các em mới bắt tay vào làm bài. Để bảo đảm yêu cầu trên yêu cầu giáo viên phải hướng dẫn kỹ việc quan sát trước ở nhà hoặc ở trên lớp. Ví dụ khi miêu tả chiếc cặp giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát kỹ chiếc cặp. Giáo viên nên khéo léo khêu gợi để các em huy động vốn hiểu biết, khả năng liên tưởng, cảm xúc và vốn ngôn ngữ, giúp cho việc quan sát được tốt hơn. Khi quan sát cần huy động nhiều giác quan có thể bằng mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, lưỡi nếm, mũi ngưởi. Có như thế học sinh mới nghe được âm thanh tách tách của chiếc khóa cặp, cái cảm giác mát lạnh khi sờ lên mặt cặp và cái mùi vị quen thuộc của cái da cặp. 4. Học sinh là chủ thể của học văn miêu tả Rèn luyện các kỹ năng sản sinh văn bản là nội dung chủ yếu của các tiết học văn miêu tả. Để tránh tình trạng viết văn theo bài văn mẫu khi dạy tiết làm văn giáo viên nên dùng đúng lúc, đúng chỗ, chỉ nên dùng ở một khâu nào của quá trình dạy văn miêu tả để khảo sát và phân tích, để phụ trợ thêm cho việc thực hành. Tuyệt đối không buộc học sinh phải viết như văn mẫu. Học sinh phải thực sự làm chủ quá trình học văn miêu tả, làm chủ quá trình hình thành kỹ năng sản sinh văn bản miêu tả bằng cả 2 hình thức nói và viết. Các em phải được hoạt động luyện tập là chủ yếu trong các tiết học văn miêu tả. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức hướng dẫn. Thầy đưa ra những chỉ dẫn, những yêu cầu cụ thể để học sinh thực hiện phần giảng cần hạn chế chỉ dùng khi cần thiết. Giáo viên cần tập trung những kiến thức cơ bản, giảm nhẹ việc nói nhiều không thiết thực. Muốn thực hiện yêu cầu trên phải đưa thực hành luyện tập thành nội dung chính của tiết học. Giáo viên cần rèn kỹ năng diễn đạt bằng lời cho học sinh. 5. Xây dựng đoạn văn cho học sinh ở lớp 4 phân môn Tập làm văn giành nhiều thời gian cho 2 loại: văn kể chuyện và văn miêu tả. Qua 2 loại này chú trọng dạy đoạn văn và kỹ năng các loại đoạn văn. Đối với học sinh đoạn văn là khái niệm khá phức tạp, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ khái niệm về đoạn và dấu hiệu nhận biết về đoạn văn. Trong quá trình nhận diện đoạn văn giáo viên cần lưu ý học sinh không phải chỉ dựa vào dấu hiệu mà xem nó là đoạn văn, chúng ta chỉ coi nó là đoạn văn khi diễn đạt trọn một ý. Vì vậy trong các văn bản miêu tả để nhận diện đoạn văn cần căn cứ các ý trong bài để xây dựng một đơn vị đoạn. Khi hướng dẫn học sinh viết đoạn văn giáo viên không yêu cầu các em viết đoạn văn như diễn dịch, quy nạp mà chỉ cần học sinh viết 3 đến 4 câu làm sao các câu trong đoạn văn cần diễn đạt trọn 1 ý. Từ dàn ý đã lập học sinh sử dụng ngôn ngữ để dựng thành đoạn và bài. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh viết bài miêu tả theo nhiều đoạn, mỗi đoạn tả một bộ phận của đồ vật, cây cối hay con vật. Hướng dẫn học sinh viết đoạn yêu cầu phải có sự liên kết chặt chẽ về ý nghĩa các câu trong đoạn. Sự liên hệ giữa các câu về mặt ngôn ngữ là nhờ các biện pháp liên kết, phép lặp, phép thế, phép nối... Đoạn nào không bảo đảm yêu cầu trên sẽ trở nên lộn xộn, thiếu mạch lạc. Các đoạn trong bài lại liên kết với nhau thành 1 văn bản hoàn chỉnh. Liên kết đoạn văn làm cho nội dung văn bản chặt chẽ và liền mạch. Đây cũng là một điểm yếu của học sinh khi làm văn, vì thế khi hướng dẫn học sinh giáo viên cần phải biết giúp học sinh biết cách liên kết đoạn văn bàng cách dùng từ ngữ hoặc câu nối. 6. Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn ngôn ngữ miêu tả và lựa chọn từ ngữ khi miêu tả Vốn từ ngữ miêu tả có ý nghĩa quan trọng đối với việc làm văn miêu tả. Giúp học sinh tích lũy vốn từ ngữ miêu tả và lựa chọn từ ngữ là vấn đề quan tâm của mọi giáo viên. Giáo viên cần tạo điều kiện để các em tích lũy vốn từ ngữ miêu tả. Biện pháp đầu tiên là giúp các em tích lũy vốn ngôn ngữ miêu tả qua các bài tập đọc. Nhiều bài tập đọc là bài miêu tả hay của nhà văn. Dạy các bài tập đọc giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, chọn 1 – 2 trường hợp đặc sắc nhất để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Các tiết học luyện từ và câu cũng là một dịp để giáo viên giúp các em không chỉ hiểu rõ nghĩa của từ mà còn mở rộng chúng khi tìm các từ ngữ gần nghĩa hoặc trái nghĩa. Giáo viên hướng dẫn để các em thấy bên cạnh tính từ đẹp còn có rất nhiều từ ngữ khác: trông dễ mến, xinh xinh, xinh xắn, xinh đẹp... Lượng từ ngữ này giúp học sinh miêu tả đồ vật, cây cối, con vật có hình ảnh hơn. Giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn từ ngữ khi miêu tả. Có vốn từ ngữ rồi phải biết dùng chúng đúng lúc, đúng chỗ. Muốn vậy coi trọng việc lựa chọn từ ngữ khi diễn đạt, kết quả quan sát cũng như khi làm bài văn miêu tả. Mỗi chi tiết miêu tả thường chỉ có 1 từ ngữ, 1 hình ảnh thích hợp do đó có tác dụng gợi hình ảnh, gợi cảm nhất. Có khi ngay từ đầu các em đã nắm bắt được từ ngữ hay hình ảnh này. Cách đặt câu hỏi của giáo viên khi hướng dẫn học sinh quan sát sự vật cây cối để biết được đặc điểm của sự vật đó cũng là cách giúp học sinh tìm tòi từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả. Giáo viên cần tránh những câu chỉ hỏi về những kiến thức khoa học. Ví dụ miêu tả cây bàng cho học sinh quan sát tranh giáo viên hỏi: Cây bàng có những bộ phận nào. Giáo viên nên đặt câu có tác dụng tìm ra những chi tiết miêu tả. Nhìn tán bàng xum xuê tỏa rộng em nghĩ đến hình ảnh nào? Xuân đến, thu sang lá bàng thay đổi ra sao?... Từ những câu hỏi như thế giáo viên sẽ giúp các em liên tưởng và tìm ra từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả. Trả lời câu hỏi về cây bàng học sinh đưa ra những liên tưởng: cây bàng giống như chiếc ô xanh khổng lồ... 7. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý Là một việc làm cần thiết với học sinh lớp 4. Muốn lập được giàn ý học sinh phải tiến hành 2 công việc chính: chọn lọc ý và sắp xếp thành giàn ý. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, tài liệu các em thu thập được. Đối với bài miêu tả phải dựa vào ý định miêu tả, ý định đó sẽ trở thành chủ đề của bài miêu tả. ý định miêu tả hình thành trên cơ sở đề bài và đặc điểm đối tượng miêu tả học sinh đang quan sát. Căn cứ vào ý định này học sinh sẽ lược bỏ các chi tiết không cần thiết. Quan sát cây bàng nhận thấy đây là một cây đã trồng từ lâu nay nó to, cao. Muốn nhấn mạnh ý này giáo viên cần giúp học sinh lược bỏ các chi tiết khác (thân cây hơi cong...) và chỉ giữ lại các chi tiết thân nó lớn hơn cột nhà, thân cây mốc xỉ lại, mùa hè tán cây như một cái ô xanh, ánh nắng lọc qua và dọi xuống sân vài đóm nhỏ. Từ đó học sinh viết thành đoạn miêu tả sinh động: “Thân cây bàng lớn hơn cột nhà, cành lá xòe rộng ra nom như một cái ô lớn. Trải qua bao mưa nắng. Thân cây như mốc xĩn lại. Mùa xuân đến cây đâm chồi nảy lộc. Mùa hè cây là một cái ô xanh, ánh nắng chói chang lọc qua tán lá xum xuê, giày đặc chỉ lọt được xuống sân trường một vài đóm nhỏ. Các chi tiết miêu tả trong đoạn trên do được chọn lọc nên có sức gợi hình, gợi cảm đối với người đọc. Sau khi chọn lọc được ý rồi giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp ý. Dựa vào giàn ý chung của bài văn miêu tả để học sinh làm. Phần III: kÕt luËn I KÕt qu¶ ®¹t ®îc Được trực tiếp tham gia lớp tập huấn chuyên đề lớp 4 tôi thấy đổi mới phương pháp dạy học là một trong những vấn đề trọng tâm. Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Chính vì lẽ đó tôi luôn suy nghĩ và trăn trở áp dụng phương pháp dạy học mới vào giảng dạy. Với những gì tôi tiếp thu qua lớp tập huấn và trong quá trình giảng dạy tôi đã rút ra cho mình một bài học khi dạy. Từ những phương pháp và cách thức dạy học như thế tôi thấy chất lượng phân môn Tập làm văn với dạng bài miêu tả của lớp tôi tiến bộ hẳn lên. Tôi đã tổ chức khảo sát chất lượng với đề bài: Em hãy tả một con vật mà em yêu thích. Kết quả đạt được như sau: Số bài Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 28 5 18 9 32,5 13 46 1 3,5 Muốn đạt kết quả cao trong quá trình dạy học Tập làm văn nói chung và học văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng trước hết: - Giáo viên phải thực sự thấm nhuần đổi mới phương pháp dạy học. Hiểu được trình độ, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp mình phụ trách để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng. - Giáo viên phải là người tâm huyết với nghề, kiên trì, chịu khó với sự phát triển dần của học sinh. - Muốn có một bài văn miêu tả tốt người giáo viên phải chú ý bồi dưỡng vốn văn học và năng lực cảm nhận văn học, rèn cách cảm nhận chân thực, sáng tạo để viết văn sinh động, chính xác và hồn nhiên. - Giáo viên phải coi trọng rèn luyện kỹ năng luyện tập thực hành. Học sinh thực sự là chủ thể của quá trình học văn miêu tả. - Để giúp học sinh tránh viết những câu văn khô khăn, rời rạc giáo viên cần hướng dẫn học sinh tích lũy vốn ngôn ngữ qua các môn học khác, cách sử dụng chúng như thế nào cho có hình ảnh sinh động, hấp dẫn. - Giáo viên phải nắm vững mục đích, yêu cầu của từng thể loại văn miêu tả, căn cứ những điều quan sát được bằng giác quan và cảm xúc của mình về đối tượng miêu tả rồi dùng ngôn ngữ vẽ ra những hình ảnh chân thực về đối tượng. - Giáo viên phải giúp học sinh quan sát tốt đối tượng miêu tả. Trong quá trình quan sát giáo viên là người tổ chức, dẫn dắt học sinh học tập, giúp các em thực sự tự giác, tích cực và chủ động, tìm kiếm các từ ngữ thích hợp để diễn đạt bằng những câu hỏi gợi mở của giáo viên. Muốn học sinh làm được một bài văn hoàn chỉnh đòi hỏi giáo viên phải biết cách hướng dẫn học sinh tìm ý, sắp xếp ý thành từng đoạn liên kết các đoạn lại thành bài. II ý kiÕn ®Ò xuÊt Giáo viên phải luôn học hỏi kinh nghiệm nâng cao hiệu quả giờ dạy. -Phải đổi mới quan điểm đúng đắn nhận thức đúng đắn về môn học, phải kiên trì chịu khó đầu tưtris tuệ, tìm tòi học hỏi kinh nghiệm, tự rèn luyện trình độ chuyên môn nghiêp vụ -Trong dạy họcgiáo viên phải biết vận dụng các phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo -Tăng cường buổi sinh hoạt chuyên môn, các giờ thao giảng để đúc rút kinh nghiệm giờ dạy. -Giáo viên phải linh hoạt trong dạy học nhơng đảm bảo chuẩn kiến thức kỹ năng phù hợp với đối tượng học sinh Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình dạy Tập làm văn miêu tả. Có thể nói rằng bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi chưa thể đầy đủ được nhưng với sự tiến bộ của học sinh tôi đã mạnh dạn trình bày. Rất mong sự góp ý chân thành của Hội đồng khoa học, các cấp và các đồng nghiệp để đề tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Mục lục Thứ tự Các phần trong sáng kiến Trang 1 Phần I Mở đầu 1 2 Phần II: Giải quyết vấn đề I. Thực trạng 4 3 1. Về SGK 4 4 II. Các biện pháp chủ yếu 5 5 1. Lựa chọn phương pháp 5 6 2. Phân loại đối tượng học sinh 6 7 3. Giúp học sinh miêu tả chân thực 6 8 4. Học sinh là chủ thể của học văn miêu tả 7 9 5. Xây dựng đoạn văn cho học sinh 7 10 6. Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn ngôn ngữ miêu tả và lựa chọn từ ngữ khi miêu tả 8 11 7. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý 9 12 III. Kết quả đạt được 10 13 Phần III: Bài học kinh nghiệm 10 14 VI Tài liệu tham khảo 15 1 Sách giáo khoa tiếng việt 4 16 2 Sách giáo viên tiếng việt 4 17 3 Cách loại sách tham khảo tiếng việt 4
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_dat_loai_A_Day_va_hoc_tuvung_o_truong_THCS_nhu_the_nao_de_dat_hieu_qua.doc