Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh viết đúng chính tả lớp 5
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH LỚP NĂM
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Xã hội Việt Nam hiện nay đã có những thay đổi vượt bậc. Kinh tế phát triển với nhiều ngành nghề kinh doanh mới, nhiều bệnh viện, trường học đạt chuẩn quốc tế, đòi hỏi con người ai cũng phải nâng cao tri thức hơn. Muốn như thế, chúng ta – những người làm công tác giáo dục phải có sự đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học để đào tạo ra những con người vừa có chuyên môn, tri thức vững vàng, vừa có nhân cách tốt.
Bậc tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh, là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên – xã hội. Trang bị những phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam thông qua các môn học. Đặc biệt là môn Tiếng Việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng, đã rèn cho học sinh một số kĩ năng ( nghe, nói, đọc, viết ) và các kĩ năng tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, thay thế, lược bỏ, bổ sung, đồng thời cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về ngôn ngữ, về Tiếng Việt, về văn hoá, về tự nhiên xã hội. Phân môn chính tả chiếm một vị trí và nhiệm vụ rất quan trọng nhằm giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt – Tiếng Việt chuẩn. Phân môn chính tả trong nhà trường còn giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả. Ngoài ra phân môn này còn rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho các em lòng yêu quí Tiếng Việt và chữ Việt.
huộc. MỘT SỐ QUI TẮC CHÍNH TẢ Số TT Các qui tắc chính tả Cách viết Ví dụ 1 Qui tắc ghi phụ âm đầu a) Qui tắc viết k/ c/ q b) Qui tắc viết g / gh và ng / ngh -Trước i, e, ê, được viết là k, Trước âm đệm u được viết là q. - Trước i, e, ê được viết là gh hay ngh. Viết là g hay ng trong các trường hợp còn lại. - kể chuyện, kiên cường, - quyển sách, quyên góp - ghi nhớ, ghe xuồng, nghiên cứu, suy nghĩ 2 Qui tắc ghi âm i , y - Viết i sau phụ âm đầu - Viết y sau âm đệm - Khi nguyên âm này đứng một mình thì viết là i đối với từ thuần Việt ; viết là y đối với từ gốc Hán. - niềm tin, tiên tiến - truyện, chuyển, tuyết - âm ỉ, ầm ì, ì ạch, lợn ỉ, ỉ ôi, í ới, y tá, y hệt, y phục, y tế, lương y, y dược, 3 Qui tắc ghi dấu thanh các tiếng có nguyên âm đôi - Có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. - Không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái đầu của nguyên âm đôi. - mượn , trườn, cuồn cuộn, chuối, muỗi - múa, mía, lửa, cứa, đĩa, chĩa, 4 Qui tắc viết tên riêng Việt Nam a) Tên người và tên địa danh Việt nam b) Tên các cơ quan , tổ chức, danh hiệu, -Viết hoa tất cả các chữ cái đầu của mỗi tiếng tạo thành tên riêng đó. - Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng đó. - Võ Thị Sáu, Trần Quốc Toản, Nông Văn Dền, - Trường Tiểu học Sông Nhạn, Nhà Xuất bản Giáo dục,.. 5 Qui tắc viết tên riêng nước ngoài: a) Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt. b) Trường hợp không phiên âm qua âm Hán Việt. - Viết hoa theo qui tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam. - Viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và có gạch nối giữa các tiếng. - Mao Trạch Đông, Thái Lan, Hàn Quốc, - Lu-i Pa- xtơ, Pi- e Đơ -gây- tê, MỘT SỐ MẸO CHÍNH TẢ DỄ NHỚ 1. Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy: - Trong các từ láy đôi, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm huyền- ngã- nặng hoặc không- sắc- hỏi. Học sinh dễ dàng nhớ mẹo này qua câu lục bát sau: Chị Huyền mang nặng, ngã đau Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành. 2. Mẹo “ Mình nên nhớ viết là dấu ngã” : - với m (mình) : mẫn cảm, mãnh liệt, mạnh mẽ, mĩ thuật, mĩ mãn, mĩ lệ, con muỗi, - Với n (nên) : nỗ lực, phụ nữ, noãn bào, nỗi niềm, - Với nh (nhớ) : nhẫn nại, nhiễm bệnh, truyền nhiễm, tham nhũng, thổ nhưỡng,.. - Với v (viết) : vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, viễn thị, viễn cảnh, vỗ tay, cổ vũ, vũ trụ, - Với d (dấu) : dưỡng sinh, nuôi dưỡng, dũng cảm, dã thú, dã man, diễm phúc, - Với ng (ngã) : té ngã, ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, ngôn ngữ, ngữ nghĩa, đội ngũ, 3. Mẹo nhóm nghĩa tr- ch: - Mẹo trường từ vựng: Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng,; Những từ chỉ đồ vật trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: chai, chum, chạn, chén, chổi, chão, chõng, chiếu,..( ngoại trừ cái tráp, đồ vật này giờ ít dùng). - Mẹo kết hợp âm đệm: Tr không bao giờ đi với các vần -oa, -oă, -oe, -uê. Chỉ có Ch là có khả năng đi với các vần này.VD: choáng váng, loắt choắt, chạch chọe, chuệch choạng, . - Mẹo láy âm: Ch láy âm với các phụ âm đững trước hoặc đứng sau, Tr không láy âm với các phụ âm khác, trừ 4 ngoại lệ, đều láy với L: Trọc lóc, trụi lủi, trót lọt, trẹt lét. VD: chơi bời, cheo leo, chàng ràng, chờn vờn, chềnh ềnh, . - Mẹo thanh đệm trong từ Hán-Việt: Những từ Hán-Việt mang dấu nặng và dấu huyền đều chỉ đi với Tr chứ không đi với Ch. VD: trịnh trọng, trạm xá, trục lợi, từ trường, lập trường, trừng trị, . - Mẹo đồng nghĩa “tranh-giành”: Trong tiếng Việt có nhiều cặp từ đồng nghĩa mà một được viết với Tr, một được viết với Gi, VD: tranh-giành, trai-giai, trở mặt-giở mặt, trồng-giồng, nhà tranh-nhà gianh, . 4. Mẹo nhóm nghĩa s- x: - Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x: xôi, xa lát, xúc xích, xì dầu, xoong, - Các động từ, tính từ thường viết là x: xem, xách, xẻ, xay, xát, xào, xoa, xúc, xanh, - Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s: + Chỉ người: sứ giả, đại sứ, sư sãi, giáo sư, gia sư, + Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, si, sim, ... + Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải, + Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm, sét, Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, xoan, xoài, túi xách, xương, xô, xẻng, xưởng, xã, trạm xá, bà xơ, mùa xuân. Học sinh có thể ghi nhớ các trường hợp ngoại lệ trên bằng cách học thuộc câu văn sau: Mùa xuân, bà xơ đi xuồng gỗ xoan, mang một xe xoài đến xã, đổi xẻng và xô ở xưởng đem về cho trạm xá chữa xương. - Mẹo kết hợp âm đệm: S không kết hợp với a vần oa, oă, oe, uê (ngoa ngoăt kheo quê), do vậy chỉ có thể viết X với 4 vần này. VD xoa tay, xoắn lại, xèo tay, xuề xòa, . Ngoại lệ: soát trong rà soát, kiểm soát, soạn trong soạn bài, tòa soạn , soán trong soán đoạt và những trường hợp do điệp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt, sờ soạng. - Mẹo láy âm: Chỉ có X mới láy âm với các phụ âm đầu khác, còn S hầu không có khả năng này. VD: bờm xờm, xô bồ, búa xua, lòa xòa, xấc lấc, xích míc, xo ro, Ngoài lệ: cục súc, sáng láng, loạt soạt. 5. Mẹo viết d, r, gi: - Mẹo đồng nghĩa: Ở một số trường hợp, R đồng nghĩa với L và S do quan hệ về nguồn gốc. Đây là cơ sở để viết đúng R trong những trường hợp như vậy. + R đồng nghĩa cùng gốc với L: lấp-rấp; lóc-róc; lỗ-rỗ; ngày mười lăm-ngày rằm; ; + R đồng nghĩa cùng gốc với S: siết-riết; sắp-rắp; sáng-rạng; sẻo-rẻo; + Tương ứng R/D: ríu mắt - díu mắt; rờn rợn - dờn dợn; rõi theo - dõi theo; . + Tương ứng R/GI: rập khuôn - giập khuôn; chế riễu - chế giieeux; ràn rụa - giàn giụa; . - Mẹo về âm đệm: R và GI không kết hợp với âm đệm tức là không đứng trước các bắt đầu bằng oa, oă, uâ, oe, uê, uy. VD: dọa nạt, hậu duệ, duy trì, vô duyên, . Ngoại lệ: roa trong cu-roa - một từ phiên âm tiếng Pháp. - Mẹo láy âm “co ro - bịn rịn”: chỉ có R láy âm với B và C (K), còn D và GI thì không. VD: bịn rịn, bứt rứt, bã rã, bêu rêu, cập rập, cọm rọm, cà rà, kèo rèo, . - Mẹo “run rấy - rừng rực” : những từ láy điệp âm đầu với R có đặc điểm ngữ nghĩa khác hẳn với những từ láy điệp âm đầu với GI hay D. + Những từ láy điệp âm đầu R mô phỏng tiếng động, gợi tả âm thanh: rào rào, răng rác, róc rách, réo rắt, reng rẻng, rì rầm, . + Những từ láy điệp âm đầu R chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau: run rẩy, rung rinh, rón rén, rập rình, . + Những từ láy điệp âm đầu R chỉ những sắc thái ánh sáng động, tươi, chói: rần rật, rực rỡ, rừng rực, roi rói, rạng rỡ, . - Trong những từ láy đôi, nếu tiếng đầu có phụ âm l thì tiếng thứ hai có phụ âm là d, chứ không thể là r hay gi: lò dò, lai dai, lắc dắc, - Đối với các trường hợp khác, muốn xác định cách viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa: + gia (tăng thêm): gia hạn, gia vị, gia tăng, tăng gia, tham gia, + gia ( nhà): gia đình, gia tài, gia sản, gia sư, gia trưởng, quản gia, gia phong,.. + da (lớp vỏ bên ngoài): da thịt, da dẻ, da trời, da mặt, + ra (sự di chuyển): ra vào, ra ngoài, ra sân, ra chơi, Nhờ có bảng tổng hợp các qui tắc và mẹo luật chính tả này mà học sinh lớp tôi trở nên sôi nổi học tập, em nào cũng thuộc những câu thơ về mẹo luật chính tả, lỗi chính tả đã giảm đi đáng kể. Nhưng chỉ nắm các qui tắc và các“ mẹo” chính tả thì vẫn chưa khắc phục được triệt để các lỗi chính tả. Vì vậy, khi dạy chính tả , tôi phải phối hợp vận dụng cả qui tắc “ Kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức”. Phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu như ghi nhớ các qui tắc, các mẹo chính tả,Nhưng trong một số trường hợp ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một qui luật, qui tắc nào thì tôi dạy các em cách “nhớ từng từ một” (cách không óc ý thức), đây cũng là giải pháp hữu hiệu, hợp lí. Bởi vì, phần lớn những người viết đúng chính tả hiện nay đều dựa vào cách nhớ từng từ một. Theo cách này, tôi hướng dẫn học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của những từ dễ viết sai. Những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không nhiều, do đó học sinh có thể ghi nhớ được. Chẳng hạn như: rượu, hươu, khướu, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, xoong, quần xoóc, xe goòng, hoặc từ những chỉ viết thanh ngã chứ không viết thanh hỏi, từ để chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã, từ kể chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã, 4) Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi Song song với việc ôn tập gúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh, không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác. * Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả). Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công 1 học sinh giỏi đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để chấm điểm. Trong giờ chính tả, tôi chỉ chấm nhanh khoảng 1/3 lớp. Nhưng giờ ra chơi, tôi cố gắng chấm hết, chấm thật kĩ và ghi nhận xét cụ thể, khen những em có tiến bộ. Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, động viên những em còn viết sai nhiều về nhà sửa lỗi trong vở và trong bảng tổng hợp. * Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm nhỏ bằng nhiều hình thức thi đua như: Ai nhanh ai đúng, Tìm nhanh viết đúng, Các nhóm ghi bài làm của nhóm mình vào bảng nhóm hoặc phiếu bài tập để cả lớp nhận xét, bầu chọn nhóm thắng cuộc. * Đối với những tiết học khác, tôi cũng luôn nhắc nhở học sinh viết đúng chính tả . Khi chấm đoạn văn hoặc bài tập làm văn hoặc các bài kiểm tra của học sinh, tôi chấm kĩ càng, tỉ mỉ, chỉ rõ các lỗi chính tả và hướng dẫn học sinh sửa lỗi khi trả bài. 5) Tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập Ngay vào đầu năm học, tôi đã tổ chức cho các em nuôi heo đất bằng cách tiết kiệm, thu gom phế liệu bán mỗi tuần chỉ cho heo ăn 500 đồng hoặc 1000 đồng. Số tiền đó tôi bàn với cả lớp: ”Trong năm học, bạn nào học tập tiến bộ cô sẽ cùng cả lớp trích tiền trong heo đất mua quà để thưởng. Em nào cũng đồng ý và thi đua học tập để được nhận phần thưởng”. Học sinh Tiểu học rất thích được khen thưởng, tuyên dương. Các em rất thích được chấm điểm, rất thích được cô phê những lời khen vào vở để về nhà khoe với cha mẹ. Có thể, có em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học chính tả nhưng các em rất thích được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em vui sướng, thích đến trường; tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí của các em như vậy nên tôi luôn động viên, khuyến khích các em; tôi luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh , dù chỉ một tiến bộ nhỏ của các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập , tôi đều khen ngợi kịp thời. - Đối với những học sinh khá, giỏi, bài viết sạch đẹp, ít sai chính tả, tôi thường ghi nhận xét vào vở, và biểu dương các em trước lớp. - Đối với những học sinh viết sai chính tả nhiều, tôi luôn dành thời gian hướng dẫn các em sửa lỗi ngay tại lớp. Cứ nửa học kì, tôi chọn ra 5 em có tiến bộ nhất để khen thưởng. Phần thưởng chỉ là hai cuốn vở có chữ kí của tôi và được tôi bao bìa, dán nhãn cẩn thận hoặc một cây viết (loại có thể thay ngòi), hoặc một chiếc nón kết,Phần thưởng tuy nhỏ nhưng các em rất vui, rất hãnh diện. III/ KẾT QUẢ ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN VÀO THỰC TIỄN. Tôi áp dụng sáng kiến của mình tại lớp 5/3 truờng Tiểu học Sông Nhạn nơi tôi đang công tác . Bằng các biện pháp, các hình thức tổ chức phù hợp nói trên, tôi đã từng bước hình thành ở học sinh năng lực và thói quen viết đúng chính tả; các em viết chính tả một cách có ý thức chứ không tùy tiện như trước. Kết quả cụ thể của năm học 2014-2015 ở lớp 5/3 tổng số học sinh 23/16 nữ. Thời điểm Giỏi Khá Trung bình Yếu Đầu năm 3 em = 13,04% 5 em = 21,74% 7em = 30,43% 8 em = 34,79% GHKI 5 em = 21,74% 6 em = 26,08% 6 em = 26,09% 6 em = 26,09% CHKI 6 em = 26,09% 8 em = 34,78% 6 em = 26,09% 3 em = 13,04% GHKII 8 em = 34,78% 9 em = 39,13% 5 em = 21,74% 1 em = 4,35% CN 10em = 43,48% 9 em = 39,13% 4 em = 17,39% 0 em = Từ các biện pháp trên, tôi thấy các em ngoài sự tiến bộ về học tập ra, tình trạng học sinh bỏ học giảm đi rõ rệt, trong 4 năm liền : 2011 đến 2015 sĩ số lớp tôi chủ nhiệm đảm bảo 100% và xét Hoàn thành chương trình Tiểu học 100%. IV BÀI HỌC KINH NGHIỆM Tôi có được thành công trong dạy học phân môn Chính tả là do các nguyên nhân sau đây: 1. Tôi hiểu học sinh, nắm được đặc điểm tâm lí và nhu cầu sở thích của từng em. 2. Tôi vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, tìm hiểu đặc điểm của từng loại lỗi, xác định được “ Trọng điểm chính tả” cần dạy, và xây dựng được các qui tắc chính tả, các” mẹo” chính tả, giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng; tôi vận dụng linh hoạt 3 nguyên tắc cơ bản trong dạy học chính tả. 3. Tôi nghiên cứu thêm các tài liệu khác, tìm đọc các bài diễn đàn về Dạy chính tả trong cuốn” Sách Giáo dục & Thư viện trường học”, tìm hiểu qua mạng internet, 4. Tôi luôn ân cần chỉ bảo, động viên khích lệ học sinh làm cho các em tự tin, hứng thú , tạo ra động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các em. 5. Tôi tham khảo ý kiến của đồng nghiệp trong các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn hay trong giờ ra chơi. Bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự ủng hộ của các bậc phụ huynh. Và đặc biệt là những tiến bộ hàng ngày của học sinh. Sự tiến bộ và chăm ngoan của các em đã làm tôi thêm vui, thêm phấn chấn và tự tin vào thành công của mình. Rèn cho học sinh Tiểu học viết đúng chính tả là một việc làm khó khăn và lâu dài. Nhưng đây là phân môn Tiếng Việt rất quan trọng, nó quyết định chất lượng học tập và tỉ lệ học sinh lên lớp cao hay thấp; nó không những giúp các em học tốt mà còn góp phần “ giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”. Mặt khác, học sinh viết đúng chính tả thì chắc chắn chữ viết cũng sẽ đẹp hơn; khi chấm bài, giáo viên sẽ có tâm lí thoải mái phấn chấn hơn. Nếu chỉ dùng các phương pháp, biện pháp, hình thức dạy học thông thường ; nếu chỉ cho học sinh làm các bài tập có sẵn trong SGK thì không thể khắc phục được lỗi chính tả ; đặc biệt là lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Tôi tin rằng mỗi thầy cô giáo sẽ có những cách làm khác nhau, sẽ có những kinh nghiệm dạy chính tả hiệu quả . Nhưng theo tôi, muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng chính tả thì người giáo viên cần phải: 1. Viết chữ đẹp, đúng mẫu hiện hành và luôn viết đúng chính tả. 2. Xây dựng được môi trường học tập thân thiện, tạo ra sự hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học bằng nhiều hình thức thi đua. 3. Phát huy tính có ý thức trong dạy chính tả, coi nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không có ý thức là nguyên tắc cơ bản, chủ đạo trong việc dạy chính tả cho học sinh Tiểu học. 4. Xác định và tập trung vào “ trọng điểm chính tả” cần dạy, biết vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi, nhất là việc xây dựng các qui tắc chính tả các “ mẹo” chính tả, giúp học sinh ghi nhớ cách viết một cách khái quát, có hệ thống . 5.Tận tình dạy bảo, ân cần hướng dẫn và giúp đỡ những học sinh yếu; thường xuyên kiểm tra vở , nhắc nhở các em cách trình bày, cách sửa lỗi trong vở ; động viên, tuyên dương và khen thưởng những học sinh có nhiều tiến bộ. V. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu, tôi nghĩ nếu áp dụng các biện pháp trên vào quá trình giảng dạy, học sinh không chỉ viết đúng mà còn viết đẹp, hiểu được nội dung bài viết. Qua đó hình thành ở học sinh những phẩm chất đạo đức, đức tính kiên trì và còn tạo cho các em thêm niềm vui hứng thứ trong học tập, tính chăm chỉ viết bài. Tôi nhận thấy rằng việc sửa lỗi, nâng cao chính tả cho học sinh cũng không phải làm một việc làm khó mà chỉ cần ta yêu nghề, mến trẻ, tận tình trong giảng dạy thì chắc chắn học sinh sẽ tiến bộ rất nhanh. Một điều nữa là phải biết phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo ở mỗi học sinh, biết động viên, khích lệ kịp thời luôn tạo cho giờ học thoải mái, nhẹ nhàng. Khi nghiên cứu đề tài này tôi muốn tự mình bước đầu phát hiện và giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tế giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh. Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi về phương pháp dạy học chính tả cho học sinh lớp 5. Bản thân tôi sẽ rút kinh nghiệm và phấn đấu nhiều hơn nữa trong công tác giảng dạy. Mong rằng với vốn kinh nghiệm ít ỏi này , tôi sẽ khơi dậy trong các em tiềm năng của mình, để thông qua viết đúng, viết đẹp nhân cách của các em cũng dần được hình thành. Cùng với việc cung cấp kiến thức, giáo dục đạo đức tác phong, các em sẽ là người được giáo dục toàn diện, xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước. Rất mong được sự đóng góp chân tình của quí thầy cô và đồng nghiệp. * Đề xuất : VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO : Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Tiểu học chu kì III ( 2003-2007) Nhà xuất bản Giáo dục - 2005 Sách giáo viên Tiếng Việt 5 Đỗ Đình Hoan ( Chủ biên) Nhà xuất bản Giáo dục -2006 Sách Tiếng Việt 5 Đỗ Đình Hoan ( Chủ biên) Nhà xuất bản Giáo dục -2006 4. Phương pháp dạy học các môn học lớp 5 Nhà xuất bản Giáo dục – 2007 5. Phương pháp dạy học Tiếng Việt Nhà xuất bản Đại học sư phạm 2007 Sông Nhạn, ngày 24 tháng 05 năm 2015 Người thực hiện Đinh Quốc Nguyễn UBND HUYỆN CẨM MỸ TRƯỜNG TH SÔNG NHẠN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Sông Nhạn ngày 25 tháng 5 năm 2015 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học : 2014 - 2015 Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp. Họ và tên tác giả: Đinh Quốc Nguyễn Chức vụ : Giáo viên Đơn vị: Trường Tiểu học Sông Nhạn, Cẩm Mỹ, Đồng Nai. Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục 1 - Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 1 - Phương pháp giáo dục 1 - Lĩnh vực khác: ........................................................ 1 Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị 1 Trong Ngành 1 Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô dưới đây) Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn 1 Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn 1 Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 1 Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 5 ô dưới đây) Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao 1 Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao 1 Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao 1 Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả 1 Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 1 Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Trong Tổ/Phòng/Ban 1 Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 1 Trong ngành 1 - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Trong Tổ/Phòng/Ban 1 Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 1 Trong ngành 1 - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Trong Tổ/Phòng/Ban 1 Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 1 Trong ngành 1 Xếp loại chung : Xuất sắc 1 Khá 1 Đạt 1 Không xếp loại 1 NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN (Ký tên và ghi rõ họ tên) Đinh Quốc Nguyễn XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
File đính kèm:
- Sang kien kinh nghiem Day chinh ta theo khu vuc lop 5_12265893.doc