Sáng kiến kinh nghiệm Chương trình tiếng Pháp ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

Thực trạng các lớp song ngữ tiếng Pháp.

 Theo số liệu của Bộ GDĐT (2019), cả nước hiện có 33/63 tỉnh/thành phố có giảng dạy tiếng Pháp. Tổng số học sinh theo học ngoại ngữ này khoảng hơn 40.000 trong đó số lượng học sinh học chương trình tiếng Pháp ngoại ngữ 2 chiếm đại đa số với khoảng 20.000 học sinh, tiếp đó là các học sinh chương trình song ngữ và tăng cường tiếng Pháp với khoảng 10.000 học sinh. Tổng số giáo viên tiếng Pháp khoảng hơn 500, giáo viên Toán tiếng Pháp khoảng 30. Nghệ An chính thức tham gia chương trình song ngữ từ 1994 với 02 trường tiểu học Lê Lợi và Cửa Nam 1 (10 lớp), 02 trường THCS là Lê Lợi và Cửa Nam (8 lớp) với 2 lộ trình: lộ trình A (cursus A) dạy tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp từ lớp 1 đến hết lớp 12 và lộ trình B (cursus B) triển khai dạy học tiếng Pháp từ lớp 6 đến hết lớp 12. Cả hai lộ trình dạy học các môn: tiếng Pháp, Toán học, Vật Lý bằng tiếng Pháp (các môn khoa học học từ lớp 9). Sau khi tốt nghiệp cấp THCS, học sinh song ngữ tiếng Pháp phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp bằng tiếng Pháp (03 môn thi bắt buộc bằng tiếng Pháp) và nếu đậu, học sinh sẽ được đăng ký vào trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Lớp tiếng Pháp hệ song ngữ đã từng là mong muốn của nhiều phụ huynh và học sinh khi hàng năm hồ sơ xin thi tuyển vào lớp 1 những năm đầu là khoảng 500 hồ sơ trong khi đó chỉ lấy 60 em với 02 lớp mỗi trường. Học sinh song ngữ được tuyển chọn trên toàn địa bàn thành phố và trải qua kỳ thi tuyển theo chuẩn của nền giáo dục Cộng hòa Pháp. Các lớp song ngữ tiếng Pháp đã từng là các lớp điểm, lớp mẫu của toàn thành phố khi lần đầu tiên áp dụng dạy ngoại ngữ từ lớp 1 với chương trình mang tầm quốc tế. Với số lượng ít và có tuyển chọn, đặc biệt các lớp song ngữ được phía cộng đồng Pháp ngữ tài trợ (trợ cấp lương cho giáo viên, phòng máy, thiết bị nghe nhìn, sách giáo khoa ) và sự xã hội hóa tích cực từ phụ huynh (chuyên bán trú ), nên các lớp này luôn là lựa chọn số một của những gia đình khá giả cũng như có dự định du học sau này.

 Tuy nhiên, sau khi chương trình song ngữ tiếng Pháp không được nhận sự hỗ trợ từ cộng đồng Pháp ngữ và sau khi chương trình chính thức được chuyển giao sang cho phía Việt Nam (2006) số trường tham gia chương trình trên cả nước không ngừng giảm. Nghệ An cũng không phải ngoại lệ khi trường Tiểu học Cửa Nam 1 giảm dần số lớp học và dẫn đến trường THCS Cửa Nam cũng mất đi lớp tiếng Pháp. Hiện nay chỉ có 01 trường Tiểu học Lê Lợi và 01 trường THCS Lê lợi tiếp tục chương trình với sỹ số học sinh ngày càng giảm, đặc biệt khi lên đến cấp THPT. Mỗi năm thi vào trường chuyên Phan Bội Châu, sỹ số thí sinh thậm chí dưới 30 em. Hơn thế nữa chất lượng học sinh song ngữ cũng đang đi xuống và đáng báo động.

 

doc18 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 772 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Chương trình tiếng Pháp ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh phố. Đối tượng học sinh gần như xuất thân từ gia đình có kinh tế vững vàng và có chiến lược phát triển lâu dài. Các lớp song ngữ lúc đó được coi là lớp “vip” khi phụ huynh học sinh đầu tư nhiều vào lớp này như cơ sở vật chất (lắp đặt phương tiện nghe nhìn hiện đại...), đầu tư học tập cho con (sách vở, tài liệu, đĩa nghe, ...); trường học quan tâm khi bố trí giáo viên tốt nhất trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy các môn văn hóa tại lớp này. Tuy nhiên, chính sách luân phiên lãnh đạo đã làm thay đổi người quản lý và Hiệu trưởng không tâm huyết với tiếng Pháp sẽ không dành ưu tiên cho lớp này nữa khi xã hội đang dần phát triển và tiếng Anh đang được lựa chọn đưa vào trường học sớm hơn, nhiều phụ huynh lựa chọn tiếng Anh hơn theo xu thế. Lớp tiếng Pháp thì luôn hạn chế sỹ số (35 học sinh) và chỉ mỗi lớp một khối, lợi ích từ lớp này đem lại là không cao và chưa rõ ràng (vì đây là những lớp đầu tiên) nên có thể số lượng ít ỏi này không được đưa vào chiến lược phát triển của các nhà trường. Nhiều Hiệu trưởng không đưa kế hoạch phát triển tiếng Pháp vào chương trình nhà trường; yêu cầu giáo viên tiếng Pháp phải học văn bằng 2 tiếng Anh để chuyển sang dạy ngoại ngữ này và vì vậy các lớp tiếng Pháp bị “xóa sổ” ở cấp THCS và kéo theo hệ lụy cấp tiểu học cũng phải dừng học. Vì theo lộ trình quy định hiện hành thì cấp tiểu học ở phường nào thì lên cấp THCS ở phường đó. Trong khi đó các lớp tiếng Pháp song ngữ vẫn tồn tại ở phường khác là nhờ sự quyết liệt của Hiệu trưởng khi xác định tiếp tục với chương trình. 
	Mặt khác, một số trường đã không xây dựng cho mình một chiến lược phát triển ổn định, lâu dài nên bị động khi chương trình song ngữ được phía Pháp ngữ chuyển sang cho phía Việt Nam quản lý và phát triển. Vì vậy, nhiều trường đã gặp không ít khó khăn trong quản lý chương trình, quản lý đội ngũ giáo viên và chiến lược phát triển lớp học. Sự thay đổi xã hội ảnh hưởng rất lớn đến trường học, sự thiếu chuẩn bị hoạch định lâu dài, thiếu chiến lược đầu tư phát triển, các lớp song ngữ tiếng Pháp không còn là sự ưu tiên và thay vì tiếp tục chương trình trong sự thiếu định hướng, các trường quyết định chọn tiếng Anh như nhiều trường khác trên địa bàn. Chính giáo viên đang giảng dạy tiếng Pháp cũng bị “bỏ rơi” khi thậm chí một giai đoạn dài học không được biên chế, thậm chí còn bị coi là giáo viên dự án. Rõ ràng là nhà trường đã không có chiến lược cụ thể trong việc bảo vệ giáo viên và tạo điều kiện cho giáo viên được yên tâm cống hiến. Và đến lượt mình, giáo viên tiếng Pháp cũng phải chấp nhận dạy tiếng Anh khi nhà trường đã quyết định lựa chọn ngôn ngữ này. 
2.4. Đối với Tỉnh và Sở giáo dục đào tạo: 
	Dường như lãnh đạo Tỉnh và Sở cũng chưa xây dựng được kế hoạch, chiến lược phát triển tiếng Pháp lâu dài khi trên thực tế chưa có chương trình cụ thể trong đào tạo giáo viên, phát triển lớp học, lựa chọn trường học và lộ trình học. Trên thực tế, giáo viên giảng dạy các lớp song ngữ (kể cả những môn khoa học bằng tiếng Pháp) đều được phía Pháp ngữ đào tạo sớm từ năm thứ 2 ở cấp Đại học qua cuộc thi tuyển chọn quốc gia khó khăn và khoa học. Những sinh viên được lựa chọn tiếp tục được đào tạo để chuẩn bị cho các lớp song ngữ sau này. Sau khi tốt nghiệp Đại học, các sinh viên này phải trải qua kỳ thi do Bộ giáo dục và đào tạo kết hợp với cộng đồng Pháp ngữ tổ chức trên qui mô toàn quốc với phương châm sinh viên đến từ vùng miền nào sẽ được về giảng dạy tại đại phương đó (nếu vượt qua kỳ thi tuyển chọn). Như vậy, phía Pháp ngữ đã có sự chuẩn bị và định hướng sớm khi xây dựng đội ngũ để chuẩn bị cho sự ra đời của chương trình. Nói cách khác, phía Tỉnh, Sở giáo dục không cần có sự chuẩn bị này vì gần như tất cả, từ nhân lực, vật lực đều do phía Pháp đài thọ. Tuy nhiên, khi chương trình song ngữ chuyển sang hoàn toàn cho phía Việt Nam quản lý, nhiều khó khăn bắt dầu xuất hiện như sự khó khăn về nguồn lực : chế độ tiền lương cho giáo viên, cơ sở vật chất cho các lớp song ngữ ; về nhân lực : biên chế hay không biên chế giáo viên giảng dạy các lớp song ngữ, đào tạo hay không giáo viên tiếng Pháp, tuyển dụng giáo viên dạy các bộ môn khoa học bằng tiếng Pháp... Và những khó khăn trong định hướng phát triển các lớp song ngữ cũng là bài toán khó cho các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương. Học sinh tiếp tục chương trình này ở Nghệ An sẽ lên trường chuyên Phan Bội Châu để tiếp tục học, nhưng với điều kiện phải vượt qua kỳ thi tuyển chọn chung của nhà trường. Vậy học sinh không muốn đi tiếp theo chương trình sẽ học gì và ở đâu ? Học sinh muốn học tiếp chương trình song ngữ mà không vào được trường chuyên Phan Bội Châu thì sẽ học ở đâu ? Đây là hướng đi mà chúng ta chưa có tính toán trước, chưa có chiến lược lâu dài. Vì thế rất nhiều học sinh ở cấp tiểu học, thậm chí cấp THCS phải từ bỏ chương trình vì cơ hội đi hết chương trình THPT với tiếng Pháp là rất hạn chế. Hơn nữa, các trường có tiếng Pháp có thể quyết định dừng chương trình mà không có một qui định văn bản nào từ phía Tỉnh, Sở giáo dục và đào tạo yêu cầu các trường tiếp tục chương trình và vì vậy “phép vua thua lệ làng”, chính Hiệu trưởng các trường song ngữ là người đua ra quyết định cuối cùng. 
2.5. Nguyên nhân khác:
	Chúng ta không thể phủ nhận vai trò và vị trí hàng đầu của tiếng Anh, vì vậy xu hướng lựa chọn ngôn ngữ này không phải là khó hiểu, thậm chí đây là định hướng mang tích quốc sách nếu chúng ta muốn hội nhập nhanh hơn với thế giới. sự thay đổi xã hội buộc chính sách giáo dục cũng phải thay đổi theo, từ đó các trường học cũng phải có chiến lược riêng của mình cho phù hợp với thời đại. Gia đình học sinh cũng có những tính toán, định hướng học tập cho con em mình. 
	Hàng năm, sau khi học xong cấp THPT, trung bình khoảng gần 10% sỹ số học sinh song ngữ tiếng Pháp đi du học (con số chưa chính thức). Chủ yếu lựa chọn nước Pháp để học đại học và cao hơn đại học, và một số khác chọn Canada (vùng nói tiếng Pháp), Bỉ. Số học sinh còn lại chủ yếu chọn các trường Đại học trong nước và chuyển sang học chuyên ngành khác mà không theo tiếng Pháp nữa, chỉ một số ít tiếp tục với ngôn ngữ này. Như đã phân tích ở trên, việc lựa chọn đi du học chỉ là sự lựa chọn của rất ít phụ huynh học sinh, những gia đình có điều kiện cũng như có chiến lược lâu dài từ trước. Hơn nữa, nhiều gia đình có điều kiện sẽ lựa chọn các nước nói tiếng Anh để gửi con đi du học. Vì thế tiếng Pháp không còn là lựa chọn tối ưu của các gia đình này và lớp Pháp song ngữ thiếu đi những gia đình tiềm năng. 
	Khi lớp song ngữ tiếng Pháp không còn là lựa chọn số một nữa, khi trên địa bàn thành phố có nhiều trường THCS có chất lượng, các trường có tiếng Pháp không có nhiều học sinh đặc biệt là những học sinh có định hướng tiếng Pháp lâu dài. Các trường này phải chấp nhận lấy học sinh trong phường và chỉ có những học sinh của các gia đình thường không chọn tiếng Pháp mà tùy sự sắp xếp của nhà trường hoặc có học sinh ngoài phường thì họ chấp nhận vào lớp tiếng Pháp vì trái tuyến. Việc sụt giảm sỹ số, sụt giảm chất lượng của các lớp tiếng Pháp song ngữ là không thể tránh khỏi và mất hẳn chương trình song ngữ của một số trường rõ ràng là dễ hiểu. Mặt khác, chương trình song ngữ nặng hơn chương trình phổ thông bình thường kể cả về thời lượng (7 tiết/tuần), kể cả môn học (3 môn học bắt buộc tiếng Pháp, Toán,Vật lý bằng Pháp). Đây cũng là một lý do mà nhiều học sinh không theo kịp chương trình dẫn đến chất lượng và số lượng sụt giảm. 
	Giải thích cho số lượng lớp tiếng Pháp sụt giảm không thể không đề cập đến tình hình giảng dạy ngôn ngữ này ở các cấp sau THPT và đặc biệt là cơ hội việc làm cho sinh viên học tiếng Pháp sau khi ra trường. Trên thực tế hiện nay rất ít các trường Đại học trong nước có ngành học tiếng Pháp hoặc bằng tiếng Pháp. Chỉ tồn tại ở một số thành phố lớn và số lượng lớp cũng khá hạn chế. Trường ĐH Vinh đã từng là điểm đến của rất nhiều học sinh học tiếng Pháp trong tỉnh và kể cả các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, sau khi chính sách một ngoại ngữ được trường này áp dụng thì khoa tiếng Pháp cùng với khoa tiếng Nga, tiếng Trung lần lượt bị xóa sổ. Hơn 30 giáo viên phải chuyển sang dạy tiếng Anh. Và từ đây các trường THPT trên địa bàn không có sự lựa chọn khi cạnh tranh ở các trường tại các tành phố lớn là khó khăn nên cũng dần dần chuyển sang tiếng Anh. Sự chuyển đổi này ảnh hưởng rất lớn đến các lớp song ngữ. Tuy nhiên, một lý do quan trọng giải thích cho sự sụt giảm các lớp tiếng Pháp trong đó có lớp song ngữ là thiếu cơ hội việc làm sau khi học xong Đại học. Thực tế trên thị trường công việc hiện nay, cơ hội dành cho những người sử dụng tiếng Pháp là rất hạn chế. Khi các lớp tiếng Pháp đang không ngừng giảm thì không thể tiếp tục đào tạo sinh viên sư phạm ngành pháp. Và rất nhiều sinh viên ngành sư phạm tiếng Pháp phải chuyển sang làm du lịch, làm nhiều công việc khác không liên quan tiếng Pháp hoặc chấp nhận thất nghiệp. Các công ty nước ngoài tại Việt Nam gần như ưu tiên tuyển dụng tiếng Anh, thậm chí kể cả các công ty đến từ Pháp. 
C. KẾT LUẬN
	“Sự thành công của học sinh không chỉ là do các đặc tính của chính học sinh đó (tuổi, xuất thân), mà thành công đó là kết quả của một quá trình có sự tham gia của mọi nhân tố giáo dục liên quan” (Olivier COUSIN, 1993, p403). Hiển nhiên là sự thành công của một học sinh phụ thuộc rất lớn vào nhiều nhân tố khác nhau nhưng tạo thành một khối liên kết chặt chẽ không thể tách rời. Giải quyết một vấn đề giáo dục không thể ngày một ngày hai, mà cần có một quá trình lâu dài và cần có sự vào cuộc của tất cả các nhân tố liên quan: từ chính sách của Bộ giáo dục và Đào tạo đến sự quyết tâm của từng học sinh. Qua bài viết này, chúng tôi cũng xin phép được đưa ra một số giải pháp với hy vọng đóng góp ý kiến nhỏ để giải quyết những vấn đề mà hệ thống giáo dục đang gặp phải nói chung và đối với các lớp song ngữ tiếng Pháp nói riêng. 
	Có nhiều nguyên nhân của việc sụt giảm số lượng lớp học và chất lượng học sinh song ngữ tạo Nghệ An như đã phân tích ở phần trên. Vì vậy rất cần việc phân tích từng nguyên nhân để đưa ra những giải pháp phù hợp nhất có thể. Trước hết, chúng tôi xin đề cập đến những vấn đề của hệ thống giáo dục hiện nay. Dường như hệ thống giáo dục của chúng ta, từ mấy năm lại đây, đang luẩn quẩn với việc cải cách trong giảng dạy và học tập ngoại ngữ và phân bổ quota cho mỗi ngoại ngữ trong mọi lộ trình hiện có. Đã có thời điểm, chỉ dạy một ngoại ngữ duy nhất trên toàn quốc đã được đề nghị. Nói cách khác, Bộ giáo dục chưa hành động quyết liệt khi để cho các Tỉnh, các Sở tự quyết định lựa chọn môn học ngoại ngữ cho mình. Mà ở mỗi Tỉnh, các trường học lại đưa ra lý do để đồng ý hoặc không đồng ý với với chính sách của Sở giáo dục và đào tạo với cớ là thiếu cơ sở vật chất, thiếu giáo viên hoặc là do nhu cầu người học hay cũng do chính sách phân quyền. Chính vì vậy phía Bộ phải có những chính sách cụ thể, bắt buộc các Tỉnh có tiếng Pháp phải tiếp tục chương trình đồng thời yêu cầu các Tỉnh phải áp dụng chính sách đa ngôn ngữ. Bộ giáo dục, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ phải hợp tác với tất cả các doanh nghiệp, nghiên cứu các yêu cầu của doanh nghiệp để có những định hướng chuyên môn phù hợp với từng ngành nghề và từng khu vực. Trường học không còn là một tổ chức độc lập, một đơn vị bị tách rời; mà cần mở ra với thế giới bên ngoài và đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Tại sao các công ty Pháp cần người nói tiếng Anh? Có thể vẫn còn thiếu những người nói tiếng Pháp chất lượng vì thực tế ở Việt Nam, các trường Đại học hoặc các khoa có lớp tiếng Pháp đang tỏ ra quá khiêm tốn trong khi Bộ giáo dục và đào tạo chưa có chiến lược đầu tư nguồn nhân lực nói tiếng Pháp chất lượng cho các lĩnh vực như y học, kiến ​​trúc, khoa học và công nghệ cao ...
	Thứ hai, việc thiếu tính liên tục của các khóa học tiếng Pháp sẽ là trở ngại lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ này tại Nghệ An. Khi Đại học Vinh xóa bỏ hoàn toàn các khóa tiếng Pháp, học sinh trung học ở các cơ sở nói tiếng Pháp sẽ đi đâu và học tiếng Pháp để làm gì khi ở trường Đại học, họ sẽ phải học một ngôn ngữ khác? Đây là lý do tại sao các lớp học tiếng Pháp ở trường trung học biến mất theo thời gian, nó gây ra hậu quả tương tự ở trường THCS và tiểu học. Do đó, điều quan trọng là phải duy trì sự liên tục từ cấp độ tiểu học đến giáo dục đại học, đặc biệt Nghệ An là một tỉnh nói tiếng Pháp truyền thống. Đối với chương trình song ngữ, tương lai không rõ ràng hơn khi ở trung học, cánh cửa mở ra cho học sinh vẫn còn rất hạn chế: chỉ có 35 học sinh vào trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Sau đó những học sinh kém may mắn sẽ đi về đâu? Bởi vì không có cơ sở nào khác có lớp học tiếng Pháp. Do đó, tốt hơn là nên mở các lớp học ngoại ngữ 1, hoặc ngoại ngữ 2 cho những học sinh không thể tiếp tục với chương trình song ngữ. Các gia đình sẽ tự tin gửi con mình đến các lớp học song ngữ vì những học sinh này sẽ luôn có cơ hội thứ hai nếu các em không được lựa chọn vào trường chuyên. Nói cách khác, nên có ít nhất hai khóa học song song bắt đầu từ THCS để đảm bảo tất cả những người chọn tiếng Pháp bất kể trình độ nào, lộ trình nào cũng được tiếp tục với ngôn ngữ mình đã chọn. Thậm chí, nếu phía Tỉnh và Sở quyết tâm và có chiến lược lâu dài thì có thể mở 02 lớp tiếng Pháp tại trường chuyên Phan Bội Châu trong đó một lớp chuyên và một lớp song ngữ (như một số Tỉnh khác đã và đang thực hiện). 
	Thứ ba, theo những phân tích ở phần nguyên nhân, chúng tôi một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ cấu xã hội của các trường học. Đây là lý do tại sao việc lựa chọn một ngôi trường như vậy cho các lớp học tiếng Pháp đòi hỏi sự nghiên cứu nghiêm túc và chiến lược cụ thể từ phía Bộ nhưng trên hết là trách nhiệm của lãnh đạo Tỉnh bao gồm Sở giáo dục, Phòng giáo dục và lãnh đạo nhà trường. Theo chúng tôi, nên thành lập các lớp học tiếng Pháp ở những vùng thuận lợi có trình độ văn hóa cao; lựa chọn những trường có chất lượng giáo dục tốt có uy tín trong thành phố và cả Tỉnh. Bên cạnh đó, phía Tỉnh cần phải giữ gìn và phát triển mỗi quan hệ ngoại giao, hữu nghị giữa hai nước Việt Nam-Pháp và giữa hai tỉnh kết nghĩa Côtes d’Armor- Nghệ An bằng cách phát triển các lớp tiếng Pháp trên địa bàn. 
	Thứ tư, đó là việc bổ nhiệm các hiệu trưởng. Không thể phủ nhận rằng hiệu trưởng đóng một vai trò quyết định trong trường học khi họ có một quyền lực nhất định trong hệ thống phân quyền. Khi họ muốn thực hiện một chính sách, họ huy động mọi lực lượng có thể bằng quyền của mình, bằng ảnh hưởng của mình và rõ ràng là bằng vốn xã hội của mình. Sau đó, cần phải bổ nhiệm các hiệu trưởng ủng hộ tiếng Pháp hoặc ít nhất là ủng hộ chính sách đa ngôn ngữ. Việc bổ nhiệm hiệu trưởng các trường đương nhiên không phải dễ, nhưng số lượng các trường có lớp dạy học tiếng Pháp không phải lúc nào cũng đông, việc ưu tiên các trường này có vẻ như không phải là một vấn đề khó. Nếu chúng ta phải tôn trọng luật thay đổi vị trí hiệu trưởng 5 năm một lần, thì có thể luân chuyển những người đứng đầu các trường nói tiếng Pháp với nhau để xây dựng một hệ thống trường học ổn định với những nhà lãnh đạo hiểu hết chương trình. Giải pháp này sẽ được hưởng lợi từ những kinh nghiệm và ý chí của các hiệu trưởng đối với sự phát triển bền vững của các lớp tiếng Pháp.
	Cuối cùng, một mặt, do chương trình các lớp song ngữ rất nặng, nên cần đội ngũ giáo viên có chất lượng được đào tạo hàng năm mà không quên việc đổi mới, sửa đổi sách giáo khoa và thiết kế đề thi cho phù hợp với trình độ của học sinh hiện nay. Trên thực tế, Bộ cũng đã có những chỉnh sửa giảm nhẹ chương trình hơn cũng như phù hợp với thực tế hơn khi giảm tiết dạy mỗi tuần, thay thế các môn khoa học bằng tiếng Pháp những nơi không có giáo viên bằng tiếng Anh. Mặt khác, đối với sự thành công của học sinh, đội ngũ giảng viên đóng một vai trò quan trọng đến mức chúng ta nói đến hiệu ứng của lớp học và theo Pascal BRESSOUX, “sự ổn định của hiệu quả trường học phụ thuộc rất nhiều vào sự ổn định của đội ngũ giáo viên. " Do đó, điều quan trọng là phải xây dựng một tổ chức giảng dạy ổn định bao gồm các nhà lãnh đạo, giáo viên và các chuyên gia chủ động và hợp tác. 
	Chiến lược giáo dục nói chung được xây dựng trong một thời gian dài, đồng thời huy động trí tuệ không chỉ của tất cả những nhân tố giáo dục mà còn của toàn xã hội. Đề xuất của chúng tôi vẫn mang tính cá nhân và khách quan. Ngoài ra, những sáng kiến ​​này chỉ dừng lại trong khuôn khổ của một tình huống giáo dục cụ thể với tất cả những đặc điểm riêng biệt của nó. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng giáo dục luôn đòi hỏi những phản ánh, phản biện và sự tham gia tích cực của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi nhà trường và toàn xã hội và tất nhiên như chính phủ đã tuyên bố “Giáo dục là chiến lược quốc gia hàng đầu”.
	SKKN này được thực hiện dựa trên những kinh nghiệm của bản thân và những trăn trở khi tiếng Pháp đang gặp khó khăn. Bài viết dựa trên lý thuyết vững chắc của các nhà khoa học giáo dục trên thế giới, những nghiên cứu mang tính khoa học, có điều tra và thông tin đáng tin cậy. Hy vọng bài viết này sẽ giúp những nhà quản lý giáo dục, các trường đã và đang giảng dạy tiếng Pháp song ngữ trên địa bàn và cả các tỉnh khác trên cả nước nhìn nhận lại quá trình quản lý, xây dựng và phát triển hệ song ngữ nói chung và hệ song ngữ tiếng Pháp nói riêng. Từ đó sẽ có được chiến lược giáo dục đúng đắn, duy trì, phát triển và mở rộng lớp học dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Trước thực trạng tiếng Pháp hệ song ngữ đang gặp khó khăn, SKKN này hy vọng sẽ đóng góp một số giải pháp căn cơ để duy trì các lớp tiếng Pháp trên địa bàn và mong muốn phát triển cả về số lượng và chất lượng đưa các lớp song ngữ tiếng Pháp trở về những ngày vinh quang của mình. Đồng thời đóng góp ý kiến cho sự phát triển chung trong chiến lược đa ngôn ngữ trong chương trình giáo dục, đáp ứng mọi yêu cầu hội nhập quốc tế và là bản tham chiếu cho chương trình phát triển hệ song ngữ tiếng Anh trên địa bàn. 
Nguồn tài liệu tham khảo:
1. QĐ 2658 QD-BGDĐT 2018 kế hoạch triển khai đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. 
2. Bernoux, Ph. (2004). Sociologie du changement, dans les entreprises et les organisations. Edition du Seuil. 
3. Bertucci, M M (2007). Enseignement du français et plurilinguisme, Le Français aujourd'hui 1/2007 (n° 156), p. 49-56.
Consulté sur le site www.cairn.info/revue-le-francais-aujourd-hui-2007-1-page-49.htm. 
4. Bourdieu, P (1966). L’école conservatrice. Les inégalités devant l’école et devant la culture. R.franç de sociol. 1966, 7-3. Les changements en France (pp 325-347). 
5. Bourdieu, P (1979). « Les trois états du capital culturel », Actes de la recherche en sciences sociales, vol. 30, n° 30, p. 3–6. En ligne: .  
6. Bressoux, P. (1995). Les effets du contexte scolaire sur les acquisitions des élèves : effet-école et effets-classes en lecture. Revue française sociologie, XXXVI (pp 273-294) 
7. Cousin, O (1993) « L’effet établissement, construction d’une problématique », R.franç.sociol.XXXIV,395-419
8. Demailly, L. (1991) L’effet établissement  (chapitre VII, pp 191-204) dans Le collège, crise, mythes et métiers (1991)
9. Thurler, G et Perrenoud, Ph (2004), Professionnalisation et formation des chefs d’établissement, Administration et Education, no102, pp. 67-76.
Các trang mạng tham khảo:
1. Capital culturel: 
2. La stratégie. www.lemondedepolitique.fr
3. La stratégie. www.techo-science.net
4. La stratégie. www.linternaute.com/dictionnaire
5. L’avenir de la francophonie.  
6. L’enseignement du français au Vietnam. 
Phụ lục 
Kết quả điều tra học sinh song ngữ tiếng Pháp
Tên trường
THCS C1
THCS C2
Số lượng học sinh tham gia   
76
21
Nghề nghiệp của mẹ 
Cán bộ công chức
22.5 %
28.5 %
Buôn bán
67.1 %
43.0 %
 Nghề khác	
10.4 %
28.5 %
Trình độ chuyên môn của mẹ  	
Tiến sỹ
3%
5 %
Thạc sỹ	
9%
0 %
Cử nhân
24%
5 %
Khác
64%
90 %
Phương tiện học tập 
Từ điển
68%
100 %
Sách giáo khoa
61%
100 %
Đĩa nghe
25%
81 %
Khác
13%
57.2 %
Học thêm 
Tiếng Pháp
51%
66 %
Tiếng Anh
4%
33 %
Toán	
30.3 %
100 %
Văn 
19.7 %
81 %
Môn học khác
4 %
19 %
Hỗ trợ học bài ở nhà
Bố mẹ	
34.21%
5 %
Người khác
57%
5 %
Không
9%
90 %

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_chuong_trinh_tieng_phap_o_nghe_an_thuc.doc
Sáng Kiến Liên Quan