Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 2
Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, đang ở bước đầu rèn nói và viết: từ, câu, đoạn, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp.
Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kỹ năng nói và viết, góp phần hình thành, phát triển nhân cách của trẻ và những kiến thức cơ bản trong đời sống hằng ngày. Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em đựơc làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.
Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em chưa biết viết 1 câu hoàn chỉnh, thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý.
UBND HUYỆN GIA BÌNH TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐẠI LAI GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC “Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2” Giáo viên: Nguyễn Thị Toan Phần I: Đặt vấn đề Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặt biệt quan trọng đối với học sinh, giúp các em phát triển toàn diện hình thành những cơ sở thế giới khoa học.Trong đó Tập làm văn là một trong những phân môn có tầm quan trọng, đặc biệt ở bậc tiểu học nhất là học sinh lớp 2 (vì ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2 học sinh mới bắt đầu được học, được làm quen). Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, đang ở bước đầu rèn nói và viết: từ, câu, đoạn, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em chưa biết viết 1 câu hoàn chỉnh, thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Thực trạng công tác dạy và học phân môn Tập làm văn ở lớp 2 1. Ưu điểm: - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và các cấp chính quyền địa phương. - Là giáo viên giảng dạy lớp 2 nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm. - Được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn. - Được sự giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp trong công tác giảng dạy. - Cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học cũng được nhà trường trang bị đầy đủ phục vụ cho việc dạy và học. - Sách vở và đồ dùng học tập của học sinh được phụ huynh mua sắm đầy đủ. II. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong phân môn tập làm văn - Biện pháp 1: Tích cực vận dụng phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh. - Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn. - Biện pháp 3: Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét và chữa bài - Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh học sinh. Thứ hai khai thác kỹ tranh, ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng, mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. Ví dụ Tả ngắn về biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn miền núi nên các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế tôi thường sưu tầm những tranh ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh biển, Hoặc vào dịp nghỉ lễ, nghỉ hè các em hay được ba mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, tôi có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển. b, Phương pháp phân tích ngôn ngữ Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để tôi có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ hiểu - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt nghĩa).Trên cơ sở đó, tôi hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi hết câu. Mỗi tiết học có kiến thức liên quan, tôi đều gợi mở cho học sinh tự khắc sâu kiến thức về các mẫu câu và nhắc học sinh áp dụng khi giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Khi giao tiếp các em phải nói 1 câu rõ ràng cho người nghe hiểu được ý mình muốn nói. Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về người thân thì học sinh sẽ có nhiều bài làm khác nhau, giáo viên cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp. Khi kể về bố là thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của em đối với với cha mẹ, ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của mình đối với bạn bè; 2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn Khi các em nắm được yêu cầu của đề bài, do vốn từ các em còn nhiều hạn chế, các em chưa biết cách sử dụng từ phù hợp vì vậy đoạn văn thường viết theo kiểu liệt kê, thiếu cảm xúc. Để khắc phục tình trạng này tôi đã làm như sau: Ví dụ: Bài viết kể về gia đình em. - Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai? - Kể từng người trong gia đình em. - Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào? -Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào? Khi các em có hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng, các em dễ dàng định hình những gì cần viết. Và đối với học sinh gặp khó khăn trong học tập các em cũng có thể bắt nhịp được yêu cầu của bài viết được câu ngắn, đủ ý theo yêu cầu. • Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu ) • Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2,3 câu tùy theo năng lực học sinh. • Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người. c. Chú trọng lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp. Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó. Khi học về chủ đề “ Ông bà” “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần 16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình. Học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, giúp các em viết tốt về chủ đề kể về người thân trong gia đình.Trong bài tập đọc “Ngôi trường mới”, học sinh có thể rút ra được một số câu văn, từ ngữ tả về ngôi trường : “Nhìn từ xa, những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló trong cây. Tường vôi trắng, cánh cửa xanh, bàn ghế gỗ xoan đào nổi vân như lụa.”.Vận dụng từ ngữ có trong phân môn luyện từ và câu. như bài: “Từ ngữ về Bác Hồ. Dấu chấm, dấu phẩy” tôi cho học sinh học thuộc các từ ngữ về Bác và cách sử dụng dấu chấm, dấu phẩy để vận dụng cho tiết Tập làm văn tả ngắn về Bác Hồ. Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự, thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh. Ví dụ: Anh của em Anh trai của em, hoặc anh ấy, anh Minh ( thay bằng gọi tên) 3. Biện pháp 3: Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét và chữa bài Bước 1: Thực hiện nhận xét và chữa bài. Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh , sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn (tôi có theo dõi, kiểm tra, cho HS đọc lại bài đã được sửa, tránh tình trạng chỉ nghe mà không thực hành đối với HS Hoàn thành). Đối với những bài làm có ý hay, tôi giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Trong quá trình chữa bài, tôi phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Tôi ghi lời nhận xét cụ thể về cách dùng từ,viết câu, hoặc có thể nhận xét trực tiếp cho các em hiểu, rút kinh nghiệm lần sau. 4. Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh học sinh • Để học sinh học phân môn Tập làm văn của lớp đạt kết quả tốt, giáo viên cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để cùng xây dựng tốt nề nếp tự học và chuẩn bị bài ở nhà. Cụ thể ngay từ đầu năm học tôi đã trao đổi vối phụ huynh về tình hình học tập của con em, qua đó nêu vai trò của môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn tập làm văn. Tôi đã đưa ra chương trình mà các em được học trong năm học cụ thể là: Trong đó tôi lưu ý cách viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu và nêu thực trạng viết đoạn văn của các em trong những năm học trước, từ đó trao đổi các biện pháp tại nhà kết hợp với ở trường để giúp các em có kỹ năng viết văn tốt hơn. Nắm rõ nội dung chương trình các em được học, phụ huynh dễ dàng có những phương pháp tiếp cận, khơi gợi cảm xúc viết đoạn văn cho các em. Khuyến khích phụ huynh lựa chọn nhiều sách, báo cho các em đọc. 2. Kết quả đạt được * Đối với học sinh: Sau khi sử dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân môn Tập làm văn của lớp tôi có nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ đợi đến phân môn Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cô giáo. Các em rất tự tin mỗi khi khám phá, viết đoạn văn theo cách riêng của mình. Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho học sinh, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn TLV. Thành tích học tập của các em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn so với kết quả đầu năm. * Đối với giáo viên: Tôi đã có trong tay những giải pháp khi dạy dạng bài này và không còn lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. * Đối với nhà trường: Thông qua biện pháp này mà tổ chuyên môn trường chúng tôi đã có những buổi họp chuyên môn hữu ích, các đồng chí không chỉ sôi nổi thảo luận khi dạy về phân môn tập làm văn lớp 2 nói riêng này mà còn mạnh dạn đề ra các biện pháp dạy học phù hợp với các phân môn khác. * Đối với gia đình: Cha mẹ học sinh cùng cộng đồng tham gia vào các hoạt động giáo dục. Có được như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tự giác, tích cực của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở phụ huynh. Đặc biệt với biện pháp giáo dục như trên sẽ thu hút được phần lớn phụ huynh vào các hoạt động giáo dục.Tạo mối gắn kết giữa gia đình- nhà trường – xã hội. V. Đề xuất, kiến nghị: Xuất phát từ những nguyên nhân về một số hành vi đạo đức, cách ứng xử chưa văn minh, lịch sự của học sinh lớp 4B còn hạn chế, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy những kết quả tích cực đạt được, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh như sau: * Đối với giáo viên: Cần tìm hiểu đặc điểm riêng của mỗi học sinh để có biện pháp giáo dục đạo đức phù hợp, luôn lấy những câu chuyện, tấm gương tốt gần gũi để động viên, giáo dục hành vi đạo đức cho các em. Phối hợp thật tốt các lực lượng xã hội, các đoàn thể trong nhà trường để có những biện pháp giáo dục đạo đức học sinh gắn liền thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực nhất. * Về phía nhà trường: Cần tăng cường tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động tập thể, giúp các em
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_ki_nang_viet_doan_van_ng.ppt