Một số phương pháp sử dụng thiết bị dạy học nhằm giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường PTDT Bán Trú THCS Sơn Điện
Nói đến vai trò của thiết bị dạy học V.P.Golov đã nêu rõ: “phương tiện dạy học là một trong những điều quan trọng nhất để thực hiện nội dung giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh trong quá trình dạy học”.
Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã nêu rõ: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”.
Thiết bị dạy học gồm 2 nhóm: Thiết bị dạy học truyền thổng gồm bảng, tranh vẽ, mô hình, vật thật, bản đồ, sơ đồ và thiết bị dạy học hiện đại gồm đầu đĩa CD, VCD, máy tính, máy chiếu đa năng. Việc kết hợp hài hoà các thiết bị dạy học truyền thống và thiết bị dạy học hiện đại sẽ tạo hứng thú, tăng hiệu quả học tập cho học sinh và giảm sự vất vả cơ bản của giáo viên trong quá trình giảng dạy.
Thiết bị dạy học giúp học sinh hiểu nõ hơn về bản chất của mọi khái niệm trừu tượng, là cơ sờ khoa học minh chứng có sức thuyết phục, là sự vật trực quan sinh động nhất, giúp việc học trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả.
Nhưng thục tế cho thấy, ở nhiều trường trung học cơ sở hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế, mà một trong các nguyên nhân là sổ đông giáo viên thiếu nhiệt tình, trách nhiệm chưa cao, thiếu kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học. Mặt khác, các nhà trường chưa được cung ứng thiết bị dạy học một cách đầy đủ, có hệ thống, đặc biệt là các thiết bị dạy học hiện đại.
Việc sử dụng thiết bị dạy học làm tăng cường nhịp độ trình bày tài liệu và chuyền tải thông tin, giúp học sinh say mê học tập. Thiết bị dạy học cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hiện tượng, đối tượng được phản ánh, nâng cao tính trực quan cho quá trình dạy và học. Thiết bị dạy học cũng làm giảm nhẹ cường độ lao động sư phạm của người dạy và người học. Với những ưu điểm của thiết bị dạy học, tôi chọn đề tài “Một số phương pháp sử dụng thiết bị dạy học nhằm giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường PTDT Bán Trú THCS Sơn Điện” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm năn học 2017-2018.
heo nội dung bài học một cách hợp lý phù hợp với từng nội dung của bài. Đặc biệt sử dụng các phương pháp khác như: Phương pháp thông tin - tái hiện lịch sử: Giáo viên trình bày tài liệu mới, nhắc lại những kiến thức đã học có liên quan đến việc tiếp thu kiến thức mới. Giáo viên chủ yếu trình bày các sự kiện chính xác, được quy định trong chương trình giúp học sinh ghi nhớ thông qua các hoạt động về quá trình tâm lí trong nhận thức và trong một số trường hợp có thể trình bày những tài liệu mới. Việc thông tin tái hiện lịch sử được thực hiện bằng trình bày miệng với hệ thống dạy học tương ứng: Tường thuật, miêu tả và sử dụng đồ dùng trực quan. Phương pháp nhận thức lịch sử: Giáo viên trình bày sự kiện, hiện tượng trong hình thức tổng quát, trong những mối liên hệ bản chất của nó, giúp học sinh từ biết đến hiểu sâu sắc các sự kiện và quá trình lịch sử. Phương pháp nhận thức lịch sử được tiến hành thông qua dạy học nêu vấn đề, nêu câu hỏi có tính chất bài tập nhận thức. Phương pháp tìm tòi nghiên cứu: Phương pháp tìm tòi nghiên cứu được tiến hành thông qua các hình thức từ thấp đến cao của những công việc học tập như sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để trả lời các câu hỏi, hoàn thành bài tập, bước đầu tập dượt nghiên cứu một vấn đề lịch sử PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Việc học tập Lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường đều nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức chính trị cho học sinh. Trong nhiều năm qua Sở Giáo Dục và Đào Tạo Thanh Hoá, Phòng Giáo Dục và Đào Tạo Quan Sơn đã tổ chức, triển khai nhiều lớp tập huấn về việc đổi mới phương pháp dạy học. Đây cũng là nội dung được đông dảo giáo viên quan tâm và khẳng định vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo. Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động não, không có bài tập thực hành, Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học. Điều quan trọng nhất trong trong việc đổi mới phương pháp dạy học là thầy dạy thế nào để học sinh động não, làm thay đổi chất lượng hoạt động trí tuệ của học sinh, làm phát triển trí thông minh, trí sáng tạo của các em. Hiện nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bàinhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở trên lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. II. Cơ sở thực tiễn: Dạy học Lịch sử là dạy những sự gì đã diễn ra trong quá khứ, mỗi bài học đều có rất nhiều sự kiện và khái niệm lịch sử học sinh phải nhớ và hiểu. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, nhớ các kiến thức lịch sử một cách rời rạc và nhanh quên. Ngoài ra, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần đầu tư công sức nhiều, dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở nhiều trường. Trong điều kiện hiện nay, việc giảng dạy và học tập bộ môn lịch sử vẫn còn nhiều bất cập như: Chương trình sách giáo khoa khá nặng nề, quá tải về kết cấu các nội dung, về thời lượng của chương trình. Chương trình còn nặng về lí thuyết mà rất ít số tiết thực hành và ôn tập (tiêu biểu là chương trình Sử 9 học kì II). Trong mỗi bài dạy lại có quá nhiều sự kiện làm cho học sinh ít hứng thú học lịch sử vì khó nhớ, khó thuộc (bài 28, bài 29 sách giáo khoa lịch sử lớp 9). Qua nhiều năm giảng dạy lịch sử, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra những phương pháp giúp học sinh hứng thú học tập bộ môn hơn và đạt kết quả cao hơn. Một trong những phương pháp có hiệu quả tôi đã thực hiện gây hứng thú học tập cho học sinh là sử dụng các sơ đồ, biểu đồ tự làm hoặc có trong sách giáo khoa để dạy và củng cố bài học. Trên cơ sở đó, bản thân tôi đã chọn đề tài nhỏ về đổi mới phương pháp dạy học: Một số phương pháp sử dụng thiết bị dạy học nhằm giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường PTDT Bán Trú THCS Sơn Điện. III. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trong những năm qua, mặc dù chương trình và sách giáo khoa đã có thay đổi, điều chỉnh giảm tải nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài học vẫn rất nhiều. Đa số học sinh không thể nhớ hết sự kiện lịch sử nếu không hiểu bài. Vì thế để có thể giúp học sinh hiểu bài nhanh chóng giáo viên có thể sử dụng các sơ đồ có sẵn trong sách giáo khoa hoặc tự làm để cụ thể hóa các sự kiện lịch sử và hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh. Sơ đồ là một loại đồ dùng trực quan quy ước, nếu sử dụng tốt sẽ đem lại hiệu quả cao. Trong đề tài này tôi xin chủ yếu đưa ra những sơ đồ không có sẵn trong sách giáo khoa mà giáo viên tự làm để giúp học sinh nhanh chóng cụ thể hóa kiến thức, tạo biểu tượng lịch sử và củng cố bài học. IV. Các biện pháp Trong dạy học lịch sử, do không trực tiếp quan sát các sự kiện nên phương pháp trực quan góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đồ dùng trực quan có nhiều loại trong đó sơ đồ thuộc loại đồ dùng quy ước. Nhiều bài dạy lịch sử có rất nhiều thông tin và sự kiện học sinh không thể nhớ hết, nhưng GV hệ thống bằng sơ đồ thì bài học sẽ trở nên ngắn gọn và dễ hiểu. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm bản thân xin đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc sử dụng các sơ đồ để dạy học bộ môn lịch sử. Quá trình thực hiện như sau : Xác đinh các loại sơ đồ : * Loại sơ đồ có sẵn trong sách giáo khoa : Giáo viên sử dụng sơ đồ để khai thác khả năng tư duy của học sinh, chứ không nên dùng sơ đồ để minh họa. * Loại sơ đồ không có sẵn trong sách giáo khoa : 1. Sử dụng sơ đồ để cụ thể hóa kiến thức tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh trong giờ học : Ví dụ 1 : Khi dạy bài 2- Lịch sử lớp 7 Bài “Sự suy vong của chế dộ phong kiến và sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu” GV giảng đến phần sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu có thể giúp học sinh từ những kênh chữ trong sách giáo khoa vẽ sơ đồ về sự hình thành 2 giai cấp mới trong xã hội phong kiến, sau đó GV kết luận bằng sơ đồ của mình như sau : Chủ xưởng, chủ đồn điền, thương nhân giàu có. GIAI CẤP TƯ SẢN GIAI CẤP VÔ SẢN Nông nô và nô lệ da đen. Nhìn vào sơ đồ học sinh sẽ dễ dàng nhận thấy 2 giai cấp mới là Tư sản và vô sản được hình thành từ những tầng lớp nào trong xã hội phong kiến bằng một sơ đồ trực quan rất dễ nhớ và dễ hiểu.. Giai cấp tư sản được hình thành từ các chủ xưởng, chủ đồn điền, thương nhân giàu có. Còn giai cấp vô sản được hình thành từ các nông nô và nô lệ da đen. Sự hình thành 2 giai cấp mới là cơ sở dẫn đến sự hình thành mâu thuẫn mới và một xã hội mới thay cho xã hội phong kiến. Ví dụ 2: Khi dạy bài 4- Lịch sử 7: TRUNG QUỐC THỜI PHONG KIẾN Đây là dạng bài không có sơ đồ được vẽ sẵn trong sách giáo khoa, không yêu cầu học sinh kĩ năng vẽ sơ đồ, mục tiêu của bài học làm cho học sinh hiểu rõ được sự phân hoá và hình thành của các tầng lớp xã hội dưới sự tác động của các hình thức sản xuất mới, nhưng để đạt được mục đích này giáo viên lại cần thiết phải sử dụng đến phương tiện trực quan có hiệu quả nhất đó là sơ đồ. Bước 1: Cho học sinh đọc kênh chữ ở sách giáo khoa. Bước 2: GV treo sơ đồ phân hoá xã hội phong kiến trên bảng đen. ĐỊA CHỦ Quý tộc Nông dân giàu Nông dân công xã NÔNG DÂN LĨNH CANH Nông dân tự canh Nông dân nghèo SƠ ĐỒ PHÂN HOÁ XÃ HỘI PHONG KIẾN TRUNG QUỐC (TK III TCN) Bước 3: Học sinh dựa vào sơ đồ hoạt động nhóm trả lời các câu hỏi sau: ?Xã hội phong kiến Trung Quốc có những giai cấp nào? Các giai cấp này được hình thành như thế nào? Bước 4: Đại diện học sinh trong nhóm lên bảng dựa vào sơ đồ để trả lời. Bước 5: HS nhận xét, bổ sung. GV kết luận, HS tự ghi kiến thức vào vở Từ việc tiếp nhận thông tin bằng kênh chữ giáo viên đã tăng cường tính cụ thể, tính hình ảnh của các thông tin về các hiện tượng xã hội bằng sơ đồ giúp học sinh dễ tiếp thu nội dung, bản chất hiện tượng xã hội. Sơ đồ trên giúp học sinh hiểu rõ nội dung và những đặc trưng cơ bản, sự phân biệt giai cấp trong xã hội Trung Quốc vào thế kỉ III TCN.Trong quá trình sử dụng sơ đồ phân hoá xã hội giáo viên đã làm cho học sinh thấy rõ mối quan hệ của các giai cấp xã hội bằng các đường dẫn có mũi tên trong sơ đồ: Địa chủ có nguồn gốc từ tầng lớp quý tộc và nông dân giàu có, họ là những người có nhiều ruộng đất. Nông dân lĩnh canh là những người nông dân nghèo không có ruộng đất, phải làm thuê cho địa chủ và nộp tô cho địa chủ nên khổ cực hơn cả nông dân tự canh. Qua cách phân tích dẫn dắt vấn đề giáo viên đã hình thành khái niệm và giúp học sinh có thể hiểu sâu nội dung khái niệm “địa chủ”, “nông dân lĩnh canh”, nắm được mối quan hệ giữa địa chủ và nông dân lĩnh canh- hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến phương Đông. Ví dụ 3: Khi dạy bài 10- Lịch sử 7: NHÀ LÝ ĐẦY MẠNH CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC Đây là dạng bài không có sơ đồ được vẽ sẵn ở sách giáo khoa nhưng qua phần kênh chữ giáo viên yêu cầu học sinh kĩ năng vẽ sơ đồ bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương thời Lý, yêu cầu này được đưa vào câu hỏi cuối mục 1 của sách giáo khoa (tr 36): Em hãy vẽ sơ đồ bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương thời Lý. Để thực hiện mục tiêu rèn luyện kĩ năng này tôi đã tổ chức hoạt động dạy học như sau: Bước 1: Học sinh đọc kênh chữ ở sách giáo khoa trang 36 “Năm 1054... huyện, hương.” Bước 2: Cho học sinh hoạt động theo 6 nhóm, dựa trên thông tin của kênh chữ để vẽ sơ đồ bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương thời Lý. Bước 3: Đại diện các nhóm vẽ sơ đồ trên bảng và trình bày tổ chức chính quyền ở trung ương và địa phương thời Lý bằng ngôn ngữ nói. Bước 4: Học sinh nhận xét, bổ sung hoàn chỉnh phần sơ đồ, giáo viên kết luận, đánh giá hoạt động của học sinh. Bước 5: HS quan sát tự vẽ sơ đồ vào vở. Với hình thức tổ chức hoạt động dạy đã nêu trên, giáo viên đã cho học sinh hoạt động dưới hình thức nhóm, học sinh đã tự hoạt động dựa trên phần kiến thức tiếp thu từ kênh chữ, các em trong nhóm có thể đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Trên cơ sở kênh chữ trong sách giáo khoa các em có thể vẽ sơ đồ theo 2 dạng như sau: *Nhóm 1:Sơ đồ hai nhánh: VUA ĐẠI THẦN 24 LỘ, PHỦ QUAN VÕ QUAN VĂN HUYỆN HƯƠNG, XÃ HƯƠNG, XÃ VUA ĐẠI THẦN *Nhóm 2:Sơ đồ rời: +Chính quyền trung ương: QUAN VĂN QUAN VÕ +Chính quyền địa phương: 24 LỘ, PHỦ HƯƠNG, XÃ HUYỆN HƯƠNG, XÃ Cách làm này đã giúp các em rèn luyện kĩ năng vẽ sơ đồ dựa trên kênh chữ trong sách giáo khoa, kích thích tư duy và hứng thú học tập cho học sinh đồng thời các em sẽ hiểu bài và nhớ bài lâu hơn. cụ kim loại xuất hiện làm cho sản xuất tăng nhanh, dẫn đến gia đình có sự thay đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ. Làng bản cũng thay đổi từ Công xã thị tộc sang công xã nông thôn=> Xã hội có giai cấp ra đời. Việc hệ thống hóa bài học bằng sơ đồ sẽ giúp học sinh nhanh chóng hiểu bài và nhớ lâu hơn khi học toàn kênh chữ. Ví dụ 2 : Khi dạy bài 28- Lịch sử lớp 9: “ Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội” Đây là một bài học khá dài với nhiều nội dung sự kiện khó nhớ, giáo viên có thể kết thúc bài học bằng cách hệ thống hóa bài học bằng sơ đồ sau : ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ BA NHIỆM VỤ CỦA MIỀN BẮC Tiến hành Cách mạng XHCN NHIỆM VỤ CỦA MIỀN NAM Hoàn thành CMDTDCND THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ Khi sử dụng sơ đồ này để củng cố bài học, học sinh sẽ nắm được toàn bộ nội dung bài học dễ dàng. Nội dung cơ bản của bài là Miền Bắc và Miền Nam đều thực hiện những nhiệm vụ riêng của mình do Đại hội Đảng toàn quốc đề ra. b. Sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức và củng cố bài. Ví dụ 1: Khi dạy bài 11- Lịch sử lớp 6 : “Những biến chuyển về xã hội”, khi kết thúc bài học , giáo viên có thể củng cố bài học bằng sơ đồ sau : BIẾN ĐỎI XÃ HỘI BIẾN ĐỎI SẢN XUẤT BIẾN ĐỎI GIA ĐÌNH BIẾN ĐỎI LÀNG BẢN Trước khi đưa sơ đồ, giáo viên cho học sinh tự hệ thống bài học bằng sơ đồ. Sau khi HS vẽ xong giáo viên mới đưa sơ đồ ra để củng cố bài học. Qua sơ đồ học sinh sẽ hiểu được nguyên nhân làm cho xã hội biến đổi là do có công Ví dụ 3 : Khi dạy bài 30- Lịch sử lớp 9 : “ Hoàn thành giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước”- tiết 2. Giáo viên có thể củng cố kết thúc bài học bằng sơ đồ sau : TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975 CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN ( 10/3->24/3/75) CHIẾN DỊCH HUẾ-ĐÀ NẴNG (21/3->29/3/75) CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH ( 26/4->30/4/75) Khi sử dụng sơ đồ này để kết thúc bài học giáo viên có thể giúp học sinh nhớ và hiểu toàn bộ kiến thức cơ bản của bài học là Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 gồm có 3 chiến dịch lớn và thời gian diễn ra của mỗi chiến dịch. Sơ đồ này là một hình ảnh trực quan giúp học sinh hiểu và nhớ bài lâu hơn. Kết quả : Qua thực tế nhiều năm giảng dạy, với kinh nghiệm sử dụng sơ đồ để cụ thể hóa kiến thức và củng cố bài học bản thân tôi nhận thấy học sinh có hứng thú học tập hơn và nắm vững kiến thức cơ bản nhanh hơn. Hỏi ý kiến học sinh, các em cũng rất thích phương pháp này, nhiều em rất thích thú khi tự mình thiết kế sơ đồ sau mỗi bài học để nắm bắt bài học nhanh chóng và nhớ lâu. Chính phương pháp này trong năm học qua kết quả chất lượng môn Sử cao hơn so với những năm trước. 100% học sinh đạt từ trung bình trở lên, trong đó 90% khá giỏi. III. KẾT LUẬN Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ hiểu sâu những kiến thức lịch sử. Chính vì thế để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử, người giáo viên phải luôn sử dụng tốt các phương dạy học lịch sử một cách nhuần nhuyễn, trong những phương pháp đó việc sử dụng sơ đồ cũng có tác dụng rất lớn . Sơ đồ chính là một đồ dùng trực quan rất sinh động thể hiện sự sáng tạo cao của người giáo viên. Trong những năm qua, công tác thiết bị trường học đã có nhiều thay đổi và đạt những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên những đồ dùng dạy học được trang cấp chưa đủ để phục vụ cho nội dung chương trình sách giáo khoa...chính vì thế phong trào tự làm đồ dùng dạy học là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học. Việc tự làm sơ đồ dạy học được đề cập đến trong đề tài này mang ý nghĩa thể hiện sự sáng tạo của giáo viên nhằm giải quyết nhu cầu thực tiễn của giáo viên để thực hiện đổi mới phương pháp phù hợp với khả năng sư phạm của mình, với đặc điểm của lớp học, người học và môn học. Đồ dùng dạy học này, do chính giáo viên thiết kế cho phù hợp từng bài dạy giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh chóng và hiệu quả. Với việc sơ đồ hóa các kiến thức trong mỗi bài học giáo viên có thể phần nào tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng học tập bộ môn lịch sử trong tình hình hiện nay. IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Để kiểm tra kết quả học tập của học sinh học theo đề tài, tôi phát cho mỗi học sinh một đề trắc nghiệm khách quan, đề là các nội dung của các bài học đã giảng dạy trên lớp. Để đạt kết quả kiểm tra, đánh giá chính xác nhất, tôi thực hiện ở cả 2 lớp sau mỗi giờ dạy. - Tiêu chí đánh giá: + Học sinh trả lời đúng 80 - 100% số câu trắc nghiệm: Các em đã hiểu bài mức độ tốt. + Học sinh trả lời đúng 50 - 79 %: HS hiểu bài mức độ khá + Học sinh trả lời đúng dưới 50 %: HS chưa hiểu bài. - Thực hiện kiểm tra ở cả 2 lớp sau khi thực hiện đề tài đã cho kết quả: 80% số học sinh hiểu bài mức độ khá và tốt. PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận. Dạy học theo nội dung tích hợp, liên môn là sự vận dụng những nội dung và phương pháp các lĩnh vực, các môn học có liên quan để nhằm tăng hiệu quả dạy học lịch sử và làm sáng tỏ những kiến thức mà học sinh được học trong mỗi bộ môn. Việc dạy học liên môn làm cho các em nhận thức sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất, mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của lịch sử. Điều này khắc phục được tính tản mạn trong kiến thức của học sinh.. Qua việc áp dụng nội dung dạy học tích hợp liên môn vào một bài học cụ thể, tôi nhận thấy học sinh đã phát huy được tính tích cực, chủ động, hiểu bài và hứng thú hơn với bộ môn lịch sử. Nếu các giờ dạy học môn lịch sử đều áp dụng được phương pháp liên môn, tôi tin rằng giờ học lịch sử sẽ không còn khô khan và sẽ tạo được niềm yêu thích bộ môn đối với học trò. Mặt khác, dạy học theo nội dung tích hợp liên môn cho phép rút ngắn được thời gian dạy học đồng thời vẫn đảm bảo được khối lượng và chất lượng thông tin. Qua thực tiễn giảng dạy theo nội dung tích hợp liên môn, tôi rút ra những ưu điểm như: Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa hơn như hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng. Giúp học sinh phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn do việc dự tính được những điều cần thiết cho học sinh. Quan tâm đến việc sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể, điều này giúp học sinh hòa nhập vào thực tiễn cuộc sống. Giúp người học xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học. 2. Kiến nghị. - Nhà trường cần tăng cường khuyến khích giáo viên đưa chủ đề dạy học tích hợp, liên môn vào các dịp hội giảng. - Đưa hoạt động trên trường học kết nối vào hoạt động bắt buộc với các tổ bộ môn và giáo viên hằng năm. - Giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận chủ đề dạy học tích hợp liên môn. - Tích cực cho học sinh tham gia các cuộc thi liên quan đến chủ đề tích hợp, liên môn mà bộ đã phát động. - Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị trên địa bàn thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Quan Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác PHỤ LỤC 1. TƯ LIỆU LỊCH SỬ VIẾT VỀ TÌNH CẢNH NGƯỜI NÔNG DÂN “ ...Trong một miếng đất rộng rào kín bốn bề, có 3.000, 4.000 người mặc quần áo nâu rách rưới: họ chen chúc chật ních đến nỗi nhìn chung chỉ thấy một đống gì rung rinh, có những cánh tay giơ lên gầy như que sậy, khúc khuỷu, khô queo. Trong mỗi người bệnh gì cũng có: mặt phù ra hay không còn chút thịt, răng rụng, mắt mờ hay lem nhem, mình đầy ghẻ chốc. Đàn ông chăng? Đàn bà chăng? Hai mươi tuổi? Hay sáu mươi tuổi? Không phân biệt được! Không còn phân biệt được trai, gái, già trẻ nữa, chỉ thấy một cái tình cảnh khốn khổ tột bậc mà hàng nghìn miệng đen kêu lên như những tiếng kêu của súc vật”. 2. TƯ LIỆU LỊCH SỬ VIẾT VỀ TÌNH CẢNH CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG CUỘC KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN THỨ HAI “Ở các tầng mỏ lúc nhúc công nhân. Những sinh vật mặc quần áo tả tơi. Họ cuốc than hai cánh tay gầy còm. Đằng sau những xe goòng nhỏ, những đứa trẻ chừng 10 tuổi còng lưng đẩy, thân hình bé tí, khô cằn, mặt đầy mệt nhọc như đã kiệt quệ, thân hình than bám đen mò.... Những bọn người rách rưới, cánh tay khẳng khiu gầy gộc làm việc dưới ánh mặt trời mà lương rất thấp. Có cả đàn bà và đi sau các chiếc xe goòng là các em nhỏ mới độ 10 tuổi mà mặt mày bơ phờ dưới lớp bụi than nên trong già đến 40 Chúng chạy đi chạy lại liên tục để mỗi ngày kiếm được khoảng 10 đến 15 xu”. (Trích tư liệu Lịch sử 9)
File đính kèm:
- sang kien kinh nghiem mon lich su_12370966.doc