Một số kinh nghiệm dạy học văn bản Nhật dụng

 Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề đã được đề cập, bàn luận và

thực hiện trong nhiều năm qua .Với việc thực hiện giảng dạy theo chương trình sách giáo khoa mới thì đổi mới phương pháp dạy học càng được thúc đẩy và phát huy một cách có hiệu quả.

 Phát huy tính tích cực trong học tập được xem như một nguyên tắc dạy học đảm bảo chất lượng và hiệu quả, chuyển từ lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy lấy học sinh làm trung tâm là một xu hướng tất yếu có tính lịch sử.

Với các môn học nói chung và môn ngữ văn nói riêng đổi mới dạy học đã trở thành vấn đề cấp thiết và điểm mấu chốt của ngữ văn tập trung trong hai chữ “Tích” : tích hợp và tích cực. Có tích cực mới phát huy tốt tính chất tích hợp, qua tích hợp học sinh càng tích cực hơn. Nếu trong giờ giảng văn người thầy chú ý tích hợp thì học sinh sẽ chú ý đến mọi mặt của vấn đề hơn, các em phát huy mạnh mẽ hơn nữa tư duy của mình. Khi học văn cần phải liên hệ với Tiếng việt, với Tập làm văn, không chỉ có thế còn phải liên hệ chính phần giảng văn trong toàn bộ chương trình đã học với nhau mà rộng hơn là liên hệ giữa văn với kiến thức của các môn học khác như : Sinh, Sử, Địa, GDCD,Ngoại ngữ và tất nhiên là cả những kiến thức của cuộc sống. Ngoài ra, học sinh cần phải biết thêm những vấn đề bức thiết, cấp bách cần giải quyết trong xã hội vì vậy mà văn bản Nhật dụng được đưa vào chương trình giảng dạy.

 

doc20 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 6888 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số kinh nghiệm dạy học văn bản Nhật dụng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một văn bản nhật dụng phục vụ cho chủ đề “dân số và tương lai của nhân loại”. Bài toán này càng có ý nghĩa thời sự đối với các nước chậm phát triển, trong đó có Việt Nam.
	b.4 Các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn 9:
	“Phong cách Hồ Chí Minh” là bài viết nhằm trình bày cho bạn đọc hiểu và quý trọng vẻ đẹp của phong cách Bác Hồ. Từ nội dung trên, chủ đề nhật dụng cần được khai thác đó là: vấn đề quan hệ giữa hội nhập thế giới và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, một vấn đề không chỉ có ý nghĩa cập nhật mà còn có ý nghĩa lâu dài thường xuyên của các thế hệ, nhất là lớp trẻ nước ta trong học tập rèn luyện theo phong cách Bác Hồ. 
	“Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” là bài viết của nhà văn đã từng đoạt giải Nô-ben văn học (G.Mác-két). Chủ đề nhật dụng của văn bản này chính là đấu tranh cho hoà bình, chống chiến tranh để bảo vệ hoà bình. Ngăn chặn và xoá bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Đó là những vấn đề cấp thiết và nóng hổi trong đời sống chính trị của nhân loại và của mỗi dân tộc, mỗi con người.
	“Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em” được trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em của tổ chức Liên hợp quốc ngày 30/9/1990, chứng tỏ sự quan tâm toàn diện, sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em trên toàn thế giới. Các nội dung được thảo trong bản tuyên bố đã toát lên điểm tích cực và nhân đạo của cộng đồng quốc tế (trong đó có Việt Nam) về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em. Đó là ý nghĩa cập nhật cũng như ý nghĩa lâu dài của văn bản này.
II . THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.
1/ Vài nét về địa bàn nghiên cứu
	-Trường PTCS Bãi Thơm là một trường thuộc vùng sâu vùng xa của huỵên, có nhiều điểm trường lẻ. Tuy trường có nhiều cấp học, nhiều điểm lẻ nhưng có đội ngũ giáo viên đông, yêu nghề, có năng lực chuyên môn và dày dạn kinh nghiệm. 
-Do ở vùng sâu nên hệ thống điện, các phương tiện truyền thông chưa đa dạng khiến khả năng tiếp thu thông tin của các em chậm và không nhiều đồng thời giáo viên cũng chưa thể sử dụng các phương tiện dạy học hiệu quả.
	-Việc học của các em được một số gia đình quan tâm chu đáo, một số học sinh tích cực và có ý thức cao trong học tập. 
-Song bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều học sinh chưa có ý thức tự giác trong học tập, mãi chơi, bị lôi cuốn vào các trò chơi điện tử làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em.
2/ Thực trạng:
Như ta đã biết, văn bản Nhật dụng chiếm số luợng không nhiều (chỉ chiếm 10% trong chương trình SGK THCS), nhưng trước đó lí luận dạy học chưa từng đặt vấn đề PPDH văn bản nhật dụng. Cho nên giờ giảng dạy và học tập văn bản nhật dụng gặp không ít khó khăn.
	 Đồng thời, hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK ngữ văn THCS tồn tại dưới nhiều kiểu văn bản khác nhau. Đó có thể là văn bản thuyết minh (Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử, Ca Huế trên sông Hương, Động Phong Nha),Văn bản biểu cảm (Bức thư của thủ lĩnh da đỏ, Mẹ tôi, Cổng trường mở ra), văn bản nghị luận (Đấu tranh cho một thế giới hoà bình; Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em). Đó có thể là một bài báo thuyết minh khoa học (Thông tin về ngày trái đất năm 2000; Ôn dịch, thuốc lá), nhưng cũng có thể là một văn bản văn học thuộc loại tự sự (Cuộc chia tay của những con búp bê)..
	- Năm học 2007- 2008, tôi được phân công giảng dạy lớp 8/3 và 9/3 điểm Rạch Tràm của trường PTCS Bãi Thơm. Qua quá trình giảng dạy và dự giờ, góp ý và trao đổi với các đồng nghiệp, tôi nhận thấy một số thực trạng sau:
	+ GV coi các văn bản này là một thể loại cụ thể giống như truyện, kí ...nên chỉ chú ý dựa vào các đặc điểm của thể loại như: cốt truyện, nhân vật, tình huống, sự việc ghi chép để phân tích nội dung.
	+ Giáo viên thuờng chú ý khai thác và bình giá trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh. Ví dụ trong văn bản “Thông tin về trái đất năm 2000”, giáo viên chỉ giúp học sinh nắm được đặc tính không phân huỷ và tác hại của bao bì gây ra mà chưa cho học sinh liên hệ với bản thân mình, vấn đề môi trường trong xã hội.
	+ Quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống mà giáo viên chú ý nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản chưa đầy đủ. 
	+ Vốn kiến thức của GV còn hạn chế ,thiếu sự mở rộng .
	+ GV chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biện pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho HS.Trong tiết học thường khô khan, thiếu sinh động, chưa kích thích hứng thú và sự yêu thích của học sinh khi học văn.
	+ Về phương tiện dạy học mới chỉ dừng lại ở việc dùng bảng phụ trong khi đó có một số văn bản nếu học sinh được xem những tranh ảnh minh hoạ, đoạn băng ghi hình sẽ sinh động hơn rất nhiều. Ví dụ như văn bản “Động Phong Nha”, “ca Huế trên sông Hương”... Nhưng hầu hết GV không chú ý đến vấn đề này, và nếu có ý sử dụng cũng không thể thực hiện vì không có điện.
	+ GV còn có tâm lý phân vân không biết có nên sử dụng phương pháp giảng bình khi dạy những văn bản này không và nếu có thì nên sử dụng ở mức độ như thế nào?
	+ Giờ dạy tẻ nhạt, không thực sự thu hút sự chú ý của học sinh.
	+Học sinh chưa biết liên hệ thực tế, chưa biết vận dụng các môn học khác để giải quyết vấn đề nêu ra trong văn bản nhật dụng.
Từ thực trạng trên nên kết quả của việc học văn bản nhật dụng năm 2007-2008 qua bài kiểm tra đạt được như sau:
 Điểm
Lớp
Điểm 8-10	
Điểm trên 5	
Điểm dưới 5
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp 8	(18 HS)
2
11,1
8
44,4
8
44,5
Lớp 9	(19 HS)
2
10,5
9
47,4
8
42,1
*Nguyên nhân của thực trạng trên là:
Văn bản nhật dụng mới được đưa vào giảng dạy, số lượng văn bản không nhiều nên GV còn thấy rất mới mẻ, ít có kinh nghiệm, lúng túng về phương pháp.
 GV chưa có điều kiện sử dụng máy chiếu nên việc mở rộng kiến thức cho các em bằng hình ảnh rất hạn chế. 
Gv chưa xác định đúng mục tiêu đặc thù của bài học văn bản Nhật dụng.
Gv chưa có ý thức sưu tầm tư liệu có liên quan đến văn bản như tranh ảnh, văn thơ để bổ sung cho bài học thêm phong phú.
Học sinh chưa hứng thú trong học tập, 
	Trước những thực trạng và nguyên nhân trên tôi xin đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy như sau:
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Phương pháp nghiên cứu
	Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
Phương pháp quan sát: Hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự giờ đồng nghiệp từ đó tôi có thể phát hiện ra những ưu nhược điểm trong bài dạy của các đồng nghiệp .
Phương pháp so sánh: với phương pháp này tôi có thể phân loại, đối chiếu kết quả nghiên cứu.
Ngoài ra tôi còn sử dụng những phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài liệu, thống kê, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp.
2. Các biện pháp đã tiến hành:
2.1 Giáo viên cần có sự đầu tư trong phần chuẩn bị bài dạy.
	 a.Về kiến thức:
GV không chỉ xác dịnh đúng mục tiêu kiến thức của văn bản mà còn phải trang bị thêm cho mình những kiến thức mở rộng, hỗ trợ cho bài giảng như thu thập các tư liệu có liên quan đến bài giảng trên các nguồn thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình, mạng Internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm nhạc...)
	VD: Khi dạy bài “Ca Huế trên sông Hương”, GV còn phải tạo thêm nguồn tư liệu bổ sung cho bài học trên các kênh âm nhạc dân gian các vùng miền, các bài hát về Huế, các bài báo và tranh ảnh về Huế. Đồng thời giao cho học sinh sưu tầm tư liệu có liên quan đến nội dung văn bản .
	VD: Khi dạy bài: “Ôn dịch, thuốc lá”, giáo viên cần chuẩn bị thêm tấm áp phích, tranh ảnh về tác hại của thuốc lá, vỏ gói thuốc lá ghi dòng chữ “Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ”, 
	b.Về phương tiện dạy học:
	Các phương tiện dạy học truyền thống như: SGK, bảng đen, phấn trắng chưa thể đáp ứng đựơc hết yêu cầu dạy học văn bản nhật dụng. GV có thể chuẩn bị thêm các tư liệu khác như: đĩa nhạc CD, phim ảnh sẽ khiến các em hào hứng hơn trong giờ học.
	VD: Khi thiết kế bài học “Động Phong Nha” được cài đặt thêm các hình ảnh hoặc các đoạn phim ghi hình những đặc sắc của hang động, các tranh ảnh về Động Phong Nha thì sẽ thu hút sự chú ý của học sinh.
	VD: Khi thiết kế bài “Ca Huế trên sông Hương” GV cần chuẩn bị đĩa nhạc CD về tiếng hát của các làn điệu dân ca Huế và các làn điệu dân ca đặc sắc trên các miền đất nước( như chèo, dân ca Nam Bộ, dân ca quan họ).
	Vậy: Có thể nói khi dạy học văn bản nhật dụng, GV có nhiều cơ hội hơn cho đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, nhờ đó mà các bài học văn bản Nhật dụng sẽ khắc phục được tính thông tin tẻ nhạt đơn điệu. Từ đó, hiệu quả dạy học văn bản nhật dụng sẽ tăng lên.
2.2 Xác định mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng
Giáo viên cần nhấn mạnh vào hai khía cạnh chính: Trang bị kiến thức và trau dồi tư tưởng, tình cảm thái độ cho học sinh. Nghĩa là qua văn bản, cung cấp và mở rộng hiểu biết cho học sinh về những vấn đề gần gũi, bức thiết đang diễn ra trong đời sống xã hội hiện đại, từ đó tăng cường ý thức công dân đối với cộng đồng.
VD: Với văn bản “Ca Huế trên sông Hương”, mục tiêu bài học được xác định như sau:
	- Ca Huế với sự phong phú về nội dung, giàu có về làn điệu, tinh tế trong biểu diễn và thưởng thức là một nét đẹp của văn hoá cố đô Huế, cần được giữ gìn và phát triển.
	- Từ đó mở rộng vốn hiểu biết về văn hoá Huế và âm nhạc dân gian các vùng miền, bồi đắp tình yêu đối với xứ Huế và các giá trị văn hoá dân tộc.
	-Văn bản nhật dụng có thể được viết ở dạng thuyết minh kết hợp với nghị luận , miêu tả, bộc lộ cảm xúc.
2.3. Phương pháp dạy học : Dạy học phải phù hợp với phương thức biểu đạt của mỗi văn bản
	Trong dạy học văn bản, không thể hiểu nội dung tư tưởng văn bản nếu không đọc từ các dấu hiệu hình thức của chúng. Nên dạy học văn bản nhật dụng cũng phải theo nguyên tắc đi từ dấu hiệu hình thức tới khám phá mục đích giao tiếp trong hình thức ấy.
	VD: Văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê” được tạo theo phương thức biểu đạt tự sự thì hoạt động dạy học sẽ được tiến hành theo các yếu tố tự sự đặc trưng như: sự việc, nhân vật, lời văn, ngôi kể; từ đó hiểu chủ đề nhật dụng đặt ra trong văn bản này là vấn đề quyền trẻ em trong cuộc sống của gia đình thời hiện đại .
	- Còn khi văn bản được tạo lập bằng phương thức thuyết minh như “Ôn dịch, thuốc lá” thì hoạt động dạy học tương ứng sẽ là tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung văn bản từ các dấu hiệu hình thức của bài thuyết minh khoa học như: tiêu đề bài văn (Em hiểu như thế nào về đầu đề “Ôn dịch ,thuốc lá”? Có thể sửa nhan đề này thành “Ôn dịch thuốc lá” hoặc “Thuốc lá là một loại ôn dịch” được không? Vì sao?); vai trò của tác giả trong văn bản thuyết minh (Theo em, tác giả có vai trò gì trong văn bản này); đặc điểm của lời văn thuyết minh (Đoạn văn nào nói về tác hại của thuốc lá đến sức khoẻ con người? Tác hại này được phân tích trên những chứng cớ nào? Các chứng cớ được nêu có đặc điểm gì? Từ đó cho thấy mức độ tác hại như thế nào của thuốc lá đến sức khoẻ con người )...
	- Mặc dù các phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản nhật dụng là thuyết minh và nghị luận nhưng các văn bản này thường đan xen các yếu tố của phương thức khác như: tự sự ,biểu cảm. Khi đó GV cũng cần chú ý đến yếu tố này.
	VD: Văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” có kết hợp phương thức lập luận với biểu cảm thì người dạy sẽ chú ý phân tích lí lẽ và chứng cớ, từ đó tìm hiểu thái độ của tác giả, ví dụ khi phân tích phần cuối của văn bản:
	- Phần cuối của văn bản có hai đoạn. Đoạn nào nói về “chúng ta” chống vũ khí hạt nhân? Đoạn nào là thái độ của tác giả về việc này?
	- Em hiểu thế nào về “bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình ,công bằng”?
	- Ý tưởng của tác giả về việc mở “một nhà băng lưu trữ trí nhớ có thể tồn tại được sau thảm hoạ hạt nhân” bao gồm những thông điệp gì?
	- Em hiểu gì về thông điệp đó của ông?
	- GV có thể giảng tóm tắt: Bản đồng ca ....đó là tiếng nói của công luận thế giới chống chiến tranh, là tiếng nói yêu chuộng hoà bình của nhân dân thế giới. Thông điệp về một cuộc sống đã từng tồn tại trên trái đất và về những kẻ đã xoá bỏ cuộc sống trên trái đất này bằng vũ khí hạt nhân. Tác giả là người yêu chuộng hoà bình, quan tâm sâu sắc đến vũ khí hạt nhân với niềm lo lắng và công phẫn cao độ.
	Như thế với việc căn cứ vào phương thức biểu đạt của mỗi văn bản, giáo viên và học sinh sẽ dễ dàng tiếp cận nội dung từ đó hiểu được mục đích giao tiếp trong các văn bản ấy.
2.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng của phân môn văn học 
	Trong dạy học văn có nhiều phương pháp: phương pháp đàm thoại, đọc diễn cảm, giảng bình. Trong đó chú trọng nhất phương pháp đàm thoại bằng hệ thống câu hỏi dẫn dắt theo mức độ từ dễ đến khó rồi liên hệ với đời sống. 
VD: Khi dạy bài: “Phong cách Hồ Chí Minh”, giáo viên có thể đặt các câu hỏi sau:
+Văn bản cho ta thấy vẻ đẹp nào của Hồ Chí Minh?
+Vì sao có thể nói phong cách của Bác Hồ là sự nhào nặn của 2 nguồn gốc văn hoá và quốc tế?
+Trong tình hình hội nhập và giao thoa nền văn hoá ngày nay, em học tập được điều gì từ Bác?
	Khi dạy văn bản nhật dụng, GV không nên quá coi trọng phương pháp giảng bình. Bởi bình văn là bày tỏ lời hay ý đẹp về những điểm sáng thẩm mĩ trong văn chương, đối tượng bình phải là những tác phẩm mang vẻ đẹp văn chương. Theo tôi, một số văn bản giàu chất văn chương (như: Mẹ tôi, Cổng trường mở ra, Ca Huế trên sông Hương, Cuộc chia tay của những con búp bê, Phong cách Hồ Chí Minh) giáo viên có thể sử dụng lời bình giảng nhưng không nên đi quá sâu. Còn đối với những văn bản nhật dụng không nhằm cảm thụ văn chương thẩm mĩ (như Bài toán dân số, Thông tin về ngày trái đất năm 2000; Ôn dịch, thuốc lá) thì GV không thể bình phẩm đựơc những vẻ đẹp hình thức nào cũng như những nội dung sâu kín nào trong đó. Do vậy, khi dạy GV cần chú ý điều này để tránh sa vào tình trạng khai thác kĩ lưỡng văn bản mà giảm đi tính chất thực tiễn, gần gũi và cập nhật của văn bản Nhật dụng. Giáo viên cần hướng học sinh biết liên hệ điều đã học vào đời sống nhỏ và đời sống lớn.
VD: Khi dạy bài “Thông tin về Trái đất năm 2000”, giáo viên có thể làm như sau:
+Tác hại của bao bì ni lông?
+Hãy cho biết tình hình sử dụng bao bì ni lông nơi em đang sống?
+Vậy: Điều gì sẽ xảy ra khi cả nước, trung bình 1 người sử dụng 1 bao bì ni lông trong 1 ngày ?
+Từ đó, mỗi chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ Trái đất?
	Mục đích của việc dạy văn bản nhật dụng là giúp học sinh hoà nhập hơn nữa với đời sống xã hội nên GV phải tạo ra không khí giờ học dân chủ, sôi nổi, kích thích sự hào hứng của học sinh.
VD :Khi dạy bài “Ôn dịch, thuốc lá”, giáo viên có thể nêu các câu hỏi sau:
+Những người thân, bạn bè của em có hút thuốc lá không?
+Theo em các bạn học sinh hút thuốc lá là vì lí do gì?
+Vậy em nghĩ như thế nào về những người công chức đi làm việc vẫn hút thuốc lá? (họ đang bỏ từ từ, giảm dần để không hút, không thể bỏ ngay được). 
 	 VD: Khi dạy bài “ Động Phong Nha” có thể cho học sinh đóng vai là hướng dẫn viên du lịch giới thiệu về Động Phong Nha cho khách đến tham quan.
VD: Khi dạy bài “Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em”, có thể cuối tiết cho học sinh vẽ tranh về các hoạt động đảm bảo quyền trẻ em.
VD: khi dạy bài “Bài toán dân số” hay bài “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình”, sau tiết học có thể cho học sinh vẽ tranh tuyên truyền hạn chế sự gia tăng dân số,các hình thức bảo vệ hoà bình.
Qua các tiết học như thế rõ ràng học sinh có hứng thú và dành thời gian tìm tòi, vẽ tranh và giờ học trở nên sinh động hơn.
Kết luận : Như vậy để giờ dạy văn bản nhật dụng đạt kết quả cao, đáp ứng mục tiêu bài học, người giáo viên cần phải đa dạng hoá các biện pháp dạy học, các cách tổ chức dạy học, các phương tiện dạy học theo hướng hiện đại hoá: thu thập, sưu tầm các nguồn tư liệu để minh hoạ và mở rộng kiến thức. Coi trọng đàm thoại cá nhân và nhóm, chú ý tới câu hỏi liên hệ ý nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn của cá nhân và cộng đồng xã hội hiện nay. Sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản, nhanh gọn để minh hoạ cho chủ đề của văn bản. Tăng cường phương tiện dạy học điện tử như máy chiếu để gia tăng lượng thông tin trong bài học, tạo không khí dân chủ, hào hứng trong giờ học.
IV.HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	Từ những giải pháp trên tôi đã áp dụng vào quá trình giảng dạy văn bản nhật dụng lớp 8/3 và 9/3 năm 2008-2009 cũng tại điểm trường Rạch Tràm của trường PTCS Bãi Thơm. Qua bài kiểm tra, kết quả đạt được như sau.
 Điểm
Lớp
Điểm 8-10	
Điểm trên 5	
Điểm dưới 5
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp 8	(16 HS)
3
18,8
10
62,5
3
18,7
Lớp 9	(18 HS)
4
22,2
11
61,1
3
16,7
Như vậy, qua kết quả giảng dạy trên tôi nhận thấy rằng những giải pháp tôi đưa ra trong đề tài hoàn toàn có thể thực hiện được đối với học sinh trường PTCS Bãi Thơm. Kết quả thực nghiệm cho thấy học sinh có sự hào hứng với giờ học, gắn bài học với thực tiễn nhanh và hiệu quả. Giờ học trở nên sôi nổi hơn, tạo tâm lý nhẹ nhàng thoải mái cho học sinh ở những tiết học sau.
PHẦN KẾT LUẬN.
1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Qua thực hiện đề tài tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
-Giáo viên cần tăng cường đầu tư cho việc sưu tầm tư liệu, tranh ảnh.
-Giáo viên cần chọn giải pháp thích hợp, những trò chơi đơn giản cho từng văn bản chứ không nên sử dụng hết.
-Giáo viên không nên lạm dụng các hình thức để kích thích hứng thú học sinh vì sẽ chiếm hết thời gian không làm rõ trọng tâm bài.
-Không nên gò ép học sinh mà nên khuyến khích học sinh tham gia tiết học như vẽ tranh, kể chuyện.
-Không phải lúc nào cũng có thể vận dụng băng hình vì khó kiếm, chiếm thời gian nếu văn bản có nhiều nội dung cần làm rõ.
-Khuyến khích, động viên các em trong việc sưu tầm tài liệu phục vụ cho bài học.
2. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.
Tóm lại việc học tập các văn bản nhật dụng là rất cần thiết vì qua đó đã giúp các em vừa nắm được những vấn đề bức thiết và cấp thiết đòi hỏi cần giải quyết, từ đó liên hệ vào cuộc sống. Có thể nói qua văn bản nhật dụng học sinh tiếp cận được rất nhiều điều để sống tốt hơn và biết cùng cộng đồng tạo lập một cuộc sống văn minh, tiến bộ, hoà bình và trong sạch về môi trường. Do đó việc vận dụng các giải pháp trên vào giảng dạy sẽ góp phần giúp cho giáo viên dạy tốt và học sinh học tốt hơn về văn bản nhật dụng
3. NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT.
-Cần tạo ra nhiều sân chơi hơn nữa để học sinh vận dụng kiến thức và kĩ năng đã học vào cuộc sống.
-Cần đầu tư thêm về tranh ảnh, băng hình dành giảng dạy về văn bản nhật dụng.
-Tạo điều kiện thuận lợi về hệ thống điện để giúp giáo viên thực hành băng đĩa trong giảng dạy.
Trong sự phát triển đi lên của đất nước và của văn học nước nhà, văn học nhân loại, trong đó có không ít các nhân tài đất nước là giáo viên, là học sinh- chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy việc dạy chữ, dạy người là rất cần thiết. Đặc biệt trong nhà trường THCS việc hình thành nhân cách, việc tiếp cận với kiến thức nhân loại, phân biệt cái tốt, cái xấu, cái phải cái trái đối với học sinh cũng là vấn đề then chốt. Hơn nữa, giúp các em ham học, thích học môn văn (trong đó có văn bản nhật dụng) cũng là vấn đề mà giáo viên cần nghiên cứu.
Vì vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa để phát huy những tài năng sẵn có còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh, giúp các em hoàn thiện nhân cách, phát huy vốn tri thức của nhân loại làm giàu cho quê hương đất nước.
MỤC LỤC
NỘI DUNG	TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU
I/ BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI.	3
II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.	3
1. Cơ sở lý luận	3
2. Cơ sở thực tiễn 	4
III. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.	5
1.Mục đích:	5
2.Đối tượng:	5
IV.NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ MẶT LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. 	6
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:	6
1 .Cơ sở lý luận	6
2. Các nội dung cụ thể trong đề tài.	7
II . THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.	11
1/ Vài nét về địa bàn nghiên cứu	11
2/ Thực trạng:	12
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 	14
1. Phương pháp nghiên cứu	14
2. Các biện pháp đã tiến hành:	14
IV.HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 	19
PHẦN KẾT LUẬN.
1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.	20
2. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.	20
3. NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT.	20

File đính kèm:

  • docSANG_KIEN_KINH_NGHIEM_day_van_ban_nhat_dung.doc