Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi B trường mầm non Tân An

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn sáng kiến

 Ngày nay, tình trạng trẻ em thụ động, không biết ứng phó với nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước những nguy hiểm, luôn luôn ỷ lại vào người lớn, tìm sự giúp đỡ, chưa có nhiều kỹ năng trong giao tiếp ứng xử, trẻ chưa biết làm một số công việc tự phục vụ bản thân chứ không nói đến một số công việc nhẹ nhàng vừa sức để giúp đỡ người lớn, trẻ tự động làm theo ý mình, chưa biết hợp tác chia sẻ đang diễn ra khá phổ biến trong xã hội hiện nay. Những ngày đầu đến lớp, mặc dù trẻ đã 5 tuổi nhưng khi cha mẹ đưa đến lớp, vẫn còn nhiều trẻ cha mẹ bế trên tay, vẫn còn quá nhút nhát và quấy khóc. Khi ở lớp, trẻ rất ít vận động và chưa biết làm những công việc tự phục vụ bản thân như: lấy và cất đồ dùng cá nhân, vệ sinh cá nhân trẻ, chưa biết tự thay quần áo khi bẩn, vẫn còn trẻ khi ăn cơm còn chờ cô giáo xúc cơm hộ trẻ, nhiều trẻ tự xúc cơm thì quá rơi vãi cơm, Chính vì lẽ đó, nên tôi nhận thấy rằng việc rèn kỹ năng sống nói chung hay kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ mầm non là một việc làm vô cùng cần thiết trong xã hội hiện nay. Nếu các con không có kỹ năng tự phục vụ bản thân thì các con sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống. Rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ là dạy cho trẻ những thói quen sinh hoạt thường ngày trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh.

 Muốn vậy, người lớn không chỉ cho trẻ học trên sách vở mà còn cho trẻ học kiến thức thực tế ngoài đời và kỹ năng tự chăm sóc bản thân phù hợp với lứa tuổi, phải tạo điều kiện để trẻ học kỹ năng sống ngay từ nhỏ, tạo cho trẻ tính tự giác, tự lập, tự tin, tinh thần tập thể, đây là một trong những kỹ năng quan trọng thúc đẩy hoàn thiện nhân cách trẻ một cách tốt nhất, giúp trẻ nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành trong cuộc sống. Nhưng trên thực tế, trong xã hội hiện nay, các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ, đặc biệt là kỹ năng tự phục vụ bản thân. Các bậc cha mẹ thường luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ, khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng tự phục vụ bản thân trong cuộc sống còn rất nhiều hạn chế.

 Xuất phát từ những ý nghĩa trên nên tôi lựa chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi B trường mầm non Tân An ”.

 2. Điểm mới của sáng kiến

 Qua việc nghiên cứu: “Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi B trường mầm non Tân An” bản thân tôi học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm, không chỉ trên lý luận mà đặc biệt là trên thực tiễn. Tôi thiết nghĩ rằng, khi áp dụng đề tài này, trẻ sẽ hứng thú, tích cực tham gia các hoạt động tập thể, nâng cao tính tự giác tự lập, góp phần hoàn thiện nhân cách cho trẻ. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến việc chăm sóc giáo dục của nhà trường, phong trào học tập của nhà trường được phụ huynh ngày càng tin tưởng, chất lượng giáo dục nói chung, của hoạt động rèn kỹ năng sống (đặc biệt kỹ năng tự phục vụ bản thân) nói riêng có những bước phát triển nổi trội hơn. Qua đó, sự phát triển các kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ ngày càng tốt hơn.

 

docx8 trang | Chia sẻ: myhoa95 | Lượt xem: 36572 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi B trường mầm non Tân An", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng dễ chịu, cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hoá, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ thói quen tốt để hình thành những kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
           Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý. Cha mẹ nên tham gia các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá,
Hình ảnh bé Ánh Hồng giúp mẹ nhặt rau
3.4. Giải pháp 4: Tạo môi trường lành mạnh nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
         - Thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ bằng bảng đánh giá trẻ mỗi trẻ có mỗi biểu mẫu đánh giá riêng nhằm giúp giáo viên quan sát ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng mà trẻ đạt được trong ngày.Tôi đã trang bị các bảng thông tin dành cho phụ huynh, xây dựng thư viện cho bé tại nhóm, lớp. Khuyến khích giáo viên, các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe.
         - Thực hiện nghiêm túc các buổi hoạt động vệ sinh và hoạt động lao động (chiều thứ 3 và chiều thứ 5), tổ chức các buổi cho bé cùng cô chăm sóc vườn rau, cây xanh của nhóm lớp.
         - Tổ chức hội thảo“ Trường học thân thiện- Học sinh tích cực”.
3.5. Giải pháp 5: Phối hợp với đồng nghiệp nhận thức sâu sắc về việc rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
          - Việc rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ nên bắt đầu từ khi còn nhỏ, ngay từ tuổi mầm non, rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân giúp trẻ tự lập, tự tin, tích cực, sáng tạo trong cuộc sống.
          - Giáo viên cần tạo cơ hội để trẻ được tương tác với bạn bè, người lớn, được trải nghiệm thực hành và luyện tập thường xuyên ở trường cũng như ở gia đình thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng như học tập, vui chơi, lao động, sáng tạo nghệ thuật,
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
         - Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách ứng xử, biết lắng nghe trình bày và mạnh dạn diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, trẻ tham gia mọi hoạt động tích cực và hứng thú. Giúp trẻ luôn cảm thấy mạnh dạn tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào?
- Giáo viên cần theo dõi sát sao từng hoạt động của trẻ để kịp thời khuyến khích và chỉ dạy trẻ. Các bài học đều là những hành động đơn giản, nhưng với trẻ là những điều mới lạ và rất khác biệt, đồng thời không phải tốc độ thực hiện của trẻ nào cũng như nhau nên điều quan trọng là giáo viên cần khuyến khích trẻ. Bất cứ lúc nào trẻ làm thử việc gì, dù trẻ có làm được hay không, giáo viên cũng nên biểu dương sự cố gắng của trẻ và khuyên cháu làm thử lại một lần nữa. Giáo viên không nên vội giúp trẻ mà điều cần thiết là hướng dẫn trẻ tự làm và cho trẻ có đủ thời gian để tự mình làm được những điều này, việc nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào mỗi đứa trẻ. Vì thế giáo viên đừng tạo áp lực cho trẻ mà hãy cư xử thật khéo léo.
- Giáo viên nên khuyến khích trẻ nói lên quan điểm, suy nghĩ của trẻ, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
- Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
3.6. Giải pháp 6: Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân
- Giáo viên cần tích cực tham gia các lớp học bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về giáo dục mầm non. Giáo viên tích cực dạy dự giờ, hội giảng, trao đổi chuyên môn với bạn bè, đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Giáo viên không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng, đọc tạp chí chuyên san, tài liệu về giáo dục mầm non để có biện pháp, kỹ năng tốt nhất chăm sóc giáo dục trẻ, có những hiểu biết cần thiết để rèn kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự phục vụ nói riêng cho trẻ.
4. Kết quả
Qua khảo sát đánh giá cuối năm, các chỉ số ở các lĩnh vực trẻ đạt cao hơn so với năm học trước .
+ Kết quả trên trẻ:
         - 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
         - 100% trẻ 5 tuổi được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường hiệu quả ngày càng cao.
         - 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập.                                                 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung sống  sống hòa bình, không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.
       - Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99,5% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp khay để khăn ăn bằng vỏ hộp sữa, tự chuẩn bị khăn ăn, chén, bát, thìa .trong các giờ ăn, biết tự mở, tự rửa vỏ hộp sữa sau khi uống sữa hoặc đường cho cô giáo làm đồ chơi, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp gối trước và sau khi ngủ ... 
        - 100% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được                 bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.                                     80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp sau mỗi giai đoạn, cuối độ tuổi và qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt:
* So sánh đối chiếu kết quả trước khi thực hiện sáng kiến:
Các tiêu chí đánh giá
Số lượng trẻ
Trước khi áp dụng biện pháp
Sau khi áp dụng biện pháp
- Mạnh dạn tự tin
       32
56,2%
93,7%
- Kỹ năng hợp tác
       32
53,1%
90,6%
- Kỹ năng giao tiếp
32
50%
93,7%
- Tự lập, tự phục vụ
32
53,1%
93,7%
- Kỹ năng thích khám phá học hỏi
32
50%
87,5%
- Kỹ năng tự kiểm soát bản thân
32
50%
87,5%
 Nhìn vào bảng so sánh đối chiếu trên chúng ta có thể thấy rằng sau khi áp dụng sáng kiến, kết quả trên trẻ đã được cải thiện rõ rệt.
        + Kết quả về phía phụ huynh: Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trừơng.
         - Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua sổ bé ngoan.       
         - Qua trao đổi với phụ huynh, nhiều phụ huynh cũng nhận thấy rằng có rất nhiều điều con mình có thể làm được nhưng trước đó phụ huynh nghĩ con mình còn bé và luôn làm hộ trẻ. Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít quát mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự để đồ dùng ngay ngắn, tự xúc cơm ở trẻ nhỏ .
        + Kết quả phía giáo viên và nhà trường
           Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ. Trong các năm qua, nhà trường đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, như: Hội thi “Bé khéo tay” “Bé khỏe bé ngoan ”, “Ngày hội thể thao của bé” Qua phát động phong trào có 100% trẻ tham gia và  cũng được phụ huynh nhiệt tình ủng hộ.
Kết quả qua các lần tổ chức, phát động các phong trào, nhà trừơng đã nhận được tham gia đông đảo và ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh,của quần chúng nhân dân. Hiệu quả lớn nhất là nhà trừơng đã huy động được sự tham gia của cha mẹ trẻ em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống cho trẻ, đồng thời đây là những cơ hội nhằm dạy trẻ kỹ năng sống.
         Giáo viên luôn lắng nghe ý kiến của trẻ không gò bó áp đặt trẻ. Cô luôn là người chỉ dẫn, truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống đã được đúc kết từ lâu.
         Giáo luôn tích cực đổi mới phương pháp dạy nhằm khuyến khích sự tích cực ở trẻ. Khai thác tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Luôn tạo cho trẻ cơ hội để trẻ được thể hiện mình, được bộc lộ bản thân mình trước mọi người.
        Đặc biệt với những tình huống đưa ra không chỉ giúp trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp tình huống tương tự mà còn giúp trẻ có kỹ năng biết cách suy luận, suy đoán tìm ra cách giải quyết ở các tình huống khác và hình thành cho trẻ kỹ năng sau này.
PHẦN III : KẾT LUẬN
      1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của sáng kiến
      * Ý nghĩa
       Dạy trẻ một số kỹ năng tự phục vụ bản thân sẽ giúp trẻ hình thành một số thói quen và thái độ tốt với công việc, dạy bé các bài học có giá trị về cuộc sống, không phải mọi thứ đều có sẵn mà phải do con người lao động làm nên.
       Để trẻ có kỹ năng phục vụ bản thân tốt, cha mẹ và giáo viên cần luôn bên cạnh để khuyến khích động viên trẻ, tránh để mất thói quen tự phục vụ ở trẻ. Người lớn không làm hộ trẻ mà cần tạo cơ hội cho bé làm để hình thành ở bé ý thức và suy nghĩ “ con có thể tự làm được” trước các việc, tin tưởng bé và cho bé tự làm, dù lúc đầu có thể là chưa đúng, có sai sót nhưng dần bé sẽ tự phục vụ được bản thân.
       Qua một năm học thực hiện theo các hình thức đó tôi thấy đã đạt được hiệu quả rõ rệt. Đặc biệt, với những hình thức cô đưa ra, trẻ nhận thức rất nhanh và biết ứng dụng trong cuộc sống thông qua việc trẻ được trải nghiệm trong hoạt động học tập, vui chơi, lao động và vệ sinh. Từ đó, tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin. Thông qua việc trẻ được thảo luận, suy nghĩ tìm ra cách giải quyết đã giúp trẻ phát triển ở nhiều mặt: Trẻ phát triển được các kỹ năng phán đoán, suy luận, biết đưa ra quyết định của mình. Bên cạnh đó, ở các lĩnh vực trẻ cũng có những tiến bộ rõ rệt.
      *Phạm vi áp dụng của sáng kiến
       - Đề tài này tôi nghiên cứu và ứng dụng trong lớp học, ứng dụng trong trường và trong các kì thi, sinh hoạt chuyên môn được đồng nghiệp tham khảo và học tập, qua đây tôi đã đúc rút được và sáng tạo thêm cho bản thân.
       - Theo tôi nghĩ từ đề tài nghiên cứu một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ này thành công ta còn có thể ứng dụng linh hoạt trong hoạt động chuyên môn của mỗi giáo viên cho tất cả các trẻ từ nhà trẻ đến mẫu giáo, vào tất cả các hoạt động khác trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Tùy theo thực tế của lớp mình phụ trách mà có thể lựa chọn để đưa vào thực hiện đạt hiệu quả cao nhất.
       - Tôi rất mong sáng kiến này sẽ được ứng dụng rộng rãi trong tất cả các trường mầm non trong toàn huyện.
       2. Bài học kinh nghiệm
         Qua việc nghiên cứu:“Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi B trường mầm non Tân An ” tôi nhận thấy rằng để nâng cao được kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cho trÎ cần:
         - Giaó viên phải nắm vững phương pháp, nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Tổ chức hoạt động phải thoải mái không gò bó áp đặt trẻ. Luôn luôn động viên khuyến khích trẻ kịp thời khi trẻ tham gia mọi hoạt động.
         - Kết hợp giữa gia đình và nhà trường thống nhất nội dung, biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
         - Tuyên truyền rộng rãi đến các bậc phụ huynh bằng các hội nghị, hội thi, qua bảng tuyên truyền treo ngoài cửa lớp. Thường xuyên trao đổi thông báo tới các bậc phụ huynh về nội dung rèn kỹ năng tự phục vụ theo kế hoạch.
        - Bản thân giáo viên phải có kinh nghiệm trong giảng dạy chăm sóc giáo dục trẻ, phải luôn tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu ngoài chương trình có nội dung giáo dục rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ để vận dụng vào thực tế khi giảng dạy.
        - Qua thời gian nghiên cứu, với sự nỗ lực của bản thân và học sinh, cô và trẻ đều phấn khởi hào hứng, trẻ đã có khả năng tự phục vụ bản thân và phối hợp vận động tốt, trẻ có ý thức giữ gìn sức khoẻ bản thân, thích tham gia các hoạt động, luôn mạnh dạn, tự tin, có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết khi tham gia các hoạt động tập thể, biết quan tâm giúp đỡ những người xung quanh.
        - Giáo viên phải thường xuyên tham mưu với nhà trường và các cấp lãnh đạo đầu tư cơ sở vật chất cho lớp mình ngày càng đầy đủ và phong phú hơn.
Một số điều ngừơi lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
         - Không hạ thấp trẻ: Khi chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng trẻ là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ. Không nên tạo cho trẻ thói quen kiêu ngạo.
- Không doạ nạt trẻ: Khi trẻ làm bất cứ việc gì không theo ý của người lớn, chúng ta không nên doạ nạt trẻ vì việc làm đó sẽ làm cho trẻ sợ hãi và căm giận ngừơi lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của trẻ tốt hơn.
- Không bắt trẻ hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với trẻ vì nếu trẻ cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở trẻ sẽ phát triển cảm giác hối lỗi.
- Không bao bọc trẻ một cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối: Cha mẹ thường không đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm được một điều gì cả. Sự bảo bọc thái qúa sẽ dẫn trẻ đến ý nghĩ rằng bản thân trẻ không thể làm điều gì nên thân. Hãy nhớ: đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có thể làm được.
- Không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở trẻ
- Không yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì những yêu cầu ở trẻ phải thực hiện một hành vi chín chắn mà trẻ chưa có khả năng hoặc trẻ phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hửơng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức ở trẻ.
          3. Kiến nghị , đề xuất
Qua nghiên cứu tìm hiểu: “Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi b trường mầm non Tân An” tôi đưa ra một số kiến nghị sau:
      Về phía Sở giáo dục: Đề nghị với Sở giáo dục mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn tại các huyện để giáo viên được học tập và nâng cao kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên mầm non; quan tâm hỗ trợ kinh phí cần thiết cho phục vụ chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.
       Về phía Phòng giáo dục: Đề nghị Phòng giáo dục tổ chức cho Ban giám hiệu và giáo viên nòng cốt thăm quan học hỏi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ giáo viên.
       Về phía nhà trường: Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tổ chức tốt các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ theo thời gian biểu của nhà trườngđã đưa ra. Ban giám hiệu nhà trường quan tâm hơn nữa đến việc tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
       Nhà trường tập huấn cho giáo viên về các kỹ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội, tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
      Về phía giáo viên: Nghiên cứu kỹ cách tổ chức, phương pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ theo hướng đổi mới để trẻ có kỹ năng sống tốt.Từ đó, trẻ tích cực tự giác thực hiện các công việc tự phục vụ. Giáo viên cần thường xuyên đổi mới phương pháp giáo dục, động viên khích lệ trẻ kịp thời để việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đạt hiệu quả cao.
       Rất mong ban giám hiệu nhà trường, phòng giáo dục, sở giáo dục xem xét kiến nghị của tôi để đáp ứng yêu cầu của hầu hết cán bộ giáo viên mầm non để chúng tôi giảng dạy tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn trong công tác chăm sóc giáo dục nói chung và rèn kỹ năng  cho trẻ nói riêng.
       Trên đây là “Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi B trường mầm non Tân An” mà tôi đã áp dụng tại trường mầm non Tân An. Tuy nhiên sáng kiến của tôi không tránh khỏi những hạn chế, rất mong được sự đóng góp của các cấp lãnh đạo, của các thầy cô giáo, của đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện và có tính khả thi cao.
Xin chân thành cảm ơn!
Tân An, ngày 15 tháng 9 năm 2016
.....................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Xác nhận đánh giá HĐKH Sở giáo dục
.............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
PHẦN IV : TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tâm lý giáo dục trẻ em (Lê Thị Ánh Tuyết)
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo.
- Bồi dưỡng thường xuyên hè các năm.
- Tạp chí giáo dục mầm non.
- Hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
- Tủ sách bé rèn luyện kỹ năng sống
- Cuốn sách giúp bé có kỹ năng tự phục vụ và thể hiện bản thân.
PHẦN V: MỤC LỤC
Phần 1: phần mở đầu
1.     Lý do chọn sáng kiến
2.     Điểm mới của sáng kiến
3.     Nhiệm vụ nghiên cứu
4.     Phương pháp nghiên cứu
5.     Đối tượng và phạm vi áp dụng
Phần 2: Nội dung
1.     Cơ sở lý luận
2.     Thực trạng
3.     Giải pháp
4.     Kết quả
Phần 3: Kết luận
1.     Ý nghĩa, phạm vi áp dụng
2.     Bài học kinh nghiệm
3.     Kiến nghị, đề xuất
Phần 1: phần mở đầu
6.     Lý do chọn sáng kiến
7.     Điểm mới của sáng kiến
8.     Nhiệm vụ nghiên cứu
9.     Phương pháp nghiên cứu
10.                        Đối tượng và phạm vi áp dụng
Phần 2: Nội dung
5.     Cơ sở lý luận
6.     Thực trạng
7.     Giải pháp
8.     Kết quả
Phần 3: Kết luận
4.     Ý nghĩa, phạm vi áp dụng
5.     Bài học kinh nghiệm
6.     Kiến nghị, đề xuất

File đính kèm:

  • docxmot_so_bien_phap_ren_ky_nang_tu_phuc_vu_ban_than_cho_tre_lop_mau_giao_5_0469.docx
Sáng Kiến Liên Quan