Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực giải toán cho học sinh lớp 6
Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, đặc biệt là sự phát triển như vũ bảo của khoa học kĩ thuật. Theo hướng đó, ngành giáo dục phải thay đổi tầm nhìn và phương thức hoạt động là yêu cầu tất yếu vì sản phẩm của giáo dục là nhân cách của con người. Nó quyết định vận mệnh tương lai của một đất nước, điều này thể hiện rõ: “Coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu cùng với khoa học công nghệ là yếu tố quyết định góp phần phát triển khoa học và xã hội”. Do đó cần phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.
Trong giáo dục, môn Toán có một vị trí quan trọng. Trong nhà trường các tri thức toán giúp học sinh học tốt các môn học khác, trong đời sống hàng ngày giúp các em có được các kĩ năng tính toán, vẽ hình, đọc, vẽ biểu đồ, đo đạc, ước lượng,. từ đó giúp con người có điều kiện thuận lợi để tiến hành hoạt động lao động trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thực tế, đa số học sinh đều rất ngại học toán so với các môn học khác, đặc biệt là học sinh đầu cấp THCS. Do lần đầu tiên tiếp xúc với môi trường mới, khi học đa số các em vận dụng kiến thức tư duy còn nhiều hạn chế, khả năng suy luận chưa nhiều, khả năng phân tích chưa cao do đó việc giải toán của các em gặp nhiều khó khăn. Vì thế ít học sinh giải đúng, chính xác, gọn và hợp lí.
uyên đặt nhiều câu hỏi gợi ý, từ đó HS mới có thể giải được những bài toán cao hơn. Học sinh trung bình Ví dụ 2 ( Bài 2.1a, b Rèn kuyện kĩ năng giải bài tập Toán 6 tập 2 tr 43 ) Tìm x biết a/ b/ Gợi ý GV: Để tìm giá trị của x ta làm như thế nào ? GV: Để tính tổng trên ta làm như thế nào ? Giải: Đối với HS trung bình đặt các câu hỏi dễ hiểu, gợi ý các chi tiết rõ ràng để các em dễ nắm được cách giải nội dung bài tập một cách hợp lí hơn. Câu b tương tự như câu a. Qua bài toán này nhằm giúp cho HS vận dụng được các kiến thức cộng 2 phân số và tùy thuộc vào đối tượng giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi ý thêm cho HS. Học sinh khá, giỏi Ví dụ 3 ( Đề số 2 Đề kiểm tra Toán 6 tập 2 tr 30 ) Ba người cùng làm chung một công việc. Nếu làm riêng người thứ nhất phải mất 4 giờ, người thứ hai phải mất 6 giờ, người thứ ba phải mất 5 giờ. Hỏi nếu làm chung thì mỗi giờ cả ba người làm được bao nhiêu phần công việc. Phân tích bài toán GV: Người thứ nhất phải mất 4 giờ để làm xong một công việc. Vậy trong 1 giờ người thứ nhất làm được bao nhiêu phần của công việc ? GV: Người thứ hai phải mất 6 giờ để làm xong một công việc. Vậy trong 1 giờ người thứ hai làm được bao nhiêu phần của công việc ? GV: Người thứ ba phải mất 5 giờ để làm xong một công việc. Vậy trong 1 giờ người thứ ba làm được bao nhiêu phần của công việc ? Đối với HS khá giỏi chúng ta sẽ hướng dẫn qua một cách sơ xài để cho HS tự độc lập suy nghĩ cách giải nào cho hợp lí nhất. Giải Trong 1 giờ người thứ nhất làm được công việc. Trong 1 giờ người thứ hai làm được công việc. Trong 1 giờ người thứ ba làm được công việc. Vậy trong 1 giờ cả ba người làm được: (công việc ) Đây là một bài toán rất gần với thực tế của cuộc sống nên học sinh rất tòi mò về các dạng bài toán như vậy vì qua những bài toán vậy làm cho học thấy mối quan hệ của toán học với cuộc sống thực tế, đồng thời thấy được lợi ít của học toán mang lại. Học sinh khá, giỏi Ví dụ 4 ( Bài tập 176 Ôn tập Toán 6 tr 93 ) Có hai xe ô tô: Xe thứ nhất chạy từ A đến B hết 3 giờ, xe thứ hai chạy từ B đến A hết 2 giờ. Xe thứ hai khởi hành sau xe thứ nhất 1 giờ. Hỏi sau khi xe thứ hai chạy được 1 giờ thì hai xe đã gặp nhau chưa ? Phân tích bài toán GV: Để biết hai xe có gặp nhau hay không ta làm như thế nào ? HS: Tìm tổng phần quãng đường của hai xe đi được. Nếu tổng quãng đường của hai xe lớn hơn hoặc bằng 1 thì hai xe đó gặp nhau. GV: Theo đề bài thì Ô tô A đi hết mấy giờ ? HS: Ô tô đi hết 2 giờ. GV: Ô tô A đi được bao nhiêu phần của quãng đường AB ? HS: Ô tô đi được quãng đường AB. GV: Theo đề bài thì Ô tô B đi hết mấy giờ ? HS: Ô tô A đi hết 1 giờ. GV: Ô tô B đi được bao nhiêu phần của quãng đường AB ? HS: Ô tô đi được quãng đường AB. Giải Ta có: Ô tô A đi trong 2 giờ được quãng đường AB. Ô tô B đi trong 1 giờ được quãng đường AB. Tổng quãng đường cả hai xe chạy được là: + =( quãng đường AB ). Vậy với thời gian trên thì hai xe đã gặp nhau. Đây là một trong những bài toán mà học thường rất ngán ngại trong giải toán vì đa số các em còn nhỏ nên khả năng phân tích bài toán chưa cao. Do đó trong quá trình giải toán GV nên hướng dẫn cho HS tập quen dần cách phân tích những dạng toán này. Nhằm làm tăng dần khả năng phân tích cho HS và đồng thời cũng tăng khả năng giải toán cho HS. Tóm lại: Trong quá trình dạy học GV cần thực hiện phân loại bài toán vì làm như vậy sẽ giúp ít cho HS trong quá trình học tập và cũng gây được hứng thú học tập cho HS. IV/ Bồi dưỡng năng lực phân tích, tổng hợp và so sánh 1. Cơ sở xác định biện pháp Nói đến năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh thì chúng ta cũng đã biết gần như mọi ngành nghề, mọi cấp học đều sử dụng đến nó. Đặt biệt với sự thay đổi phương pháp dạy học hiện nay thì năng lực này càng được chú trọng. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh này không thể thiếu được trong toán học vì nó giúp cho học sinh tăng khả năng suy luận, sáng tạo trong giải toán và tự chiếm lĩnh tri thức. Qua đó cũng giúp cho HS hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu rộng về vấn đề toán học. 2. Nội dung của biện pháp Muốn rèn luyện cho HS khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh tốt các bài toán chúng ta cần: -Cần nắm vững các kiến thức cơ bản. -Nắm kỹ nội dung của bài toán. +Bài toán đã cho ta biết điều gì ? +Yều cầu của bài toán là gì ( cần tìm cái gì ) ? +Bài toán thuộc dạng toán nào ( nhận dạng bài toán) ? Để từ đó tìm mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm. -Tổng hợp các dữ kiện để tìm ra lời giải. 3. Yêu cầu của biện pháp Nhằm giúp HS từng bước tăng khả năng tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và sáng tạo trong giải toán. 4. Các ví dụ minh họa Ví dụ 1 ( Ví dụ 71 Toán bồi dưỡng HS lớp 6 tr 65 ) Tìm số bị chia và số chia biết rằng thương bằng 5, dư bằng 12 và tổng của số bị chia, số chia, số dư bằng 150. Phân tích bài toán ( theo sơ đồ đoạn thẳng ) Đặt: a là số bị chia; b là số chia; r là số dư. GV: Dựa vào sơ đồ hãy cho biết mối quan hệ giữa số bị chia và số chia ? HS: a – r = 5b hay a = 5b + r. GV: Tổng của số bị chia, số chia và số dư bằng bao nhiêu ? HS: a + b + r = 150 GV: Ngoài cách biễu diễn đó, còn có cách nào thể hiện mối quan hệ của tổng đó hay không ? HS: 6b + r + r = 150 hay 6b = 150 – r - r = 150 -12 - 12 = 126 GV: Dựa vào đó ta có thể tìm được số chia b hay không ? HS: b = ( số chia ) GV: Khi tìm được số chia ta có thể tìm được số bị chia a hay không ? HS: a = 5b + 12 = 5.21 + 12 = 117 Giải Từ sơ đồ, ta thấy 6 lần số chia bằng 150 - 12 -12 = 126 Số chia bằng 126 : 6 = 21 Số bị chia bằng 21.5 + 12 = 117. Vậy số chia cần tìm là 21 và số bị chia là 117. Qua bài toán nhằm làm tăng khả năng phân tích bài toán cho HS, việc lựa chọn phương pháp phân tích không phải vấn đề dễ do đó đòi hỏi GV và HS cần phải rèn luyện thường xuyên. Vì vậy trong quá trình phân tích bài toán GV cần lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp và làm cho HS dễ hiểu. Ví dụ 2 ( Bài tập 206 b Ôn tập Toán 6 tr 107 ) Một người mang bán một sọt Cam. Sau khi bán số Cam và 1 quả thì số Cam còn lại là 50 quả. Tính số Cam mang bán. Phân tích bài toán ( Vẽ sơ đồ đoạn thẳng ) GV: Dựa vào sơ đồ thì số sọt Cam được chia làm mấy phần ? HS: Sọt Cam được chia làm 5 phần bằng nhau. GV: Sau khi bán hết số Cam trong sọt thì số Cam trong sọt còn lại bao nhiêu quả và chiếm bao nhiêu phần Cam trong sọt ? HS: Số Cam trong sọt còn lại 51 quả chiếm số Cam trong sọt. GV: Để biết số Cam mang bán là bao nhiêu ta làm như thế nào ? HS: Số Cam mang bán là Giải số cam người đó có là 50 + 1 = 51 ( quả ) Vậy số cam mang đi bán là 51 : = 85 (quả) Ví dụ 3 ( Ví dụ 80 Toán bồi dưỡng HS lớp 6 tr 71 ) Người ta điều tra trong lớp học có 40 HS thì có 30 HS Toán, 25 HS thích Văn, 2 HS không thích cả Toán và Văn. Hỏi có bao nhiêu HS thích cả hai môn Văn và Toán ? Phân tích bài toán GV: Dựa vào sơ đồ, hãy cho biết số HS thích cả Văn và Toán chính là phần nào của sơ đồ ? HS: Chính là x. GV: Trong tổng số HS thích Văn có HS thích Toán hay không ? Vậy số HS chỉ thích Văn là bao nhiêu ? HS: Trong tổng số HS môn Văn cũng có HS thích môn Toán. Số HS thích môn Văn là : 25 – x. GV: Tổng số HS của cả lớp là bao nhiêu ? HS: Có 40 HS. GV: Để tìm số HS thích cả hai môn Văn và Toán ta làm như thế nào ? HS: 30 + ( 25 – x ) + 2 = 40 Giải Gọi x là số HS thích cả môn Văn và Toán. Số HS thích Văn mà không thích Toán là 25-x. Theo đề bài ta có : Vậy số HS thích cả hai môn Văn và Toán là 17 HS. Việc giải bài toán có rất nhiều phương pháp đặt biệt là việc phân tích bài toán. Do đó trong quá trình dạy học thì GV cần lựa chọn phương pháp phân tích sau cho học sinh dễ hiểu. Đối với bài toán này thì lựa chọn phương pháp phân tích bằng phương pháp trực quan sẽ mạng lại hiệu quả rất cao, thông thường các dạng bài toán như thế này thì công việc phân tích bài toán được thể hiện ở những hình ảnh trực quan và giúp cho HS dễ hiểu hơn vì các mối quan hệ giữa các đại lượng được thể hiện một cách cụ thể. Tuy nhiên tùy vào đối tượng của HS mà GV có thể đặt thêm nhiều câu hỏi gợi ý để giúp cho các em hiểu rõ. Từ đó giúp cho các em giải các bài toán một cách dễ dàng hơn. V/ Bồi dưỡng năng lực giải toán bằng nhiều cách và biết lựa chọn phương án tối ưu 1. Cơ sở xác định biện pháp Giải toán là một quá trình thúc đẩy tư duy phát triển. Việc đào sâu, tìm tòi nhiều lời giải cho một bài toán chẳng những góp phần phát triển tư duy của HS mà còn góp phần hình thành nhân cách cho HS. Giúp các em không dừng lại ở một lời giải mà phải hướng tới nhiều lời giải và chọn ra một lời giải đẹp, hoàn mĩ hơn trong lúc giải toán nói riêng cũng như trong việc rèn luyện nhân cách sống của các em. 2. Nội dung của biện pháp HS tìm ra nhiều cách giải cho một bài toán là một vấn đề rất khó. Kể cả đối với HS giỏi. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy GV rèn luyện cho HS tìm ra nhiều lời giải là một vấn đề rất cần được quan tâm. Qua đó giúp HS tìm ra cách giải hay và ngắn gọn. Từ đó rèn cho HS tính kiên trì, sáng tạo trong học tập và dần hoàn thiện phương pháp giải toán cho bản thân. 3. Yều cầu của biện pháp Trong quá trình giải toán cũng như bồi dưỡng HS giỏi, mỗi GV luôn không ngừng tìm tòi nghiên cứu những những phương pháp dạy tối ưu nhất. Từ đó giúp HS lĩnh hội các phương pháp giải toán hay, phát huy được tính sáng tạo của mình. Tìm ra được nhiều cách giải hay và hợp lí. 4. Một số ví dụ minh họa Ví dụ 1 ( Bài 121 SGK Toán 6 tập 2 tr 52 ) Đoạn đường sắt Hà Nội - Hải Phòng dài 102 km. Một xe lửa xuất phát từ Hà Nội đi được quãng đường. Hỏi xe lửa còn cách Hải Phòng bao nhiêu kilômét ? Cách 1 Đoạn đường xe lửa đã đi (km) Đoạn đường xe lửa còn cách Hải Phòng 102 – 61,2 = 40,8 (km) Cách 2 Phần đoạn đường xe lửa chưa đi là: 1- (quãng đường) Đoạn đường xe lửa còn cách Hải Phòng (km). Ở ví dụ này, sau khi xác định dạng toán, tìm hiểu được nội dung dạng toán. GV cần cho HS thấy được cả hai cách giải đã nêu ở trên đều đi đến kết quả. Nhưng cách 1 dễ thực hiện hơn cách 2, cách 1 ít sai sót hơn cách 2 do không thực hiện phép trừ về phân số. Chính vì vậy, cách 1 là cách tối ưu. Khi dạy, GV nên hướng dẫn HS làm theo cách 1. Ví dụ 2 So sánh hai phân số a) và b) và Giải a) và Cách 1 Quy đồng cùng mẫu, so sánh các tử với nhau. . Ta có -3 < 1, khi đó: Cách 2 Sử dụng phân số trung gian. (Phân số có tử và mẫu là hai số nguyên khác dấu thì nhỏ hơn 0) (1) (Phân số có tử và mẫu là hai số nguyên cùng dấu thì lớn hơn 0) (2) Từ (1) và (2) suy ra: Cách 3 Sử dụng tính chất a.d > b.c thì với các mẫu b, d đều dương Ta có (-3).4 < 4.1 suy ra Ở đây cách 1 và cách 2 là phương án tối ưu để giải câu a này. Vì ta chỉ cần qua một phép biến đổi đơn giản đã đi đến kết quả. Cách 3 ta phải tính toán phức tạp hơn. Khi hướng dẫn HS giải một bài tập thì GV nên hướng dẫn tất cả các cách giải để từ đó cho HS lựa chọn phương án nào là hợp lí và dễ hiểu nhất. b) và Cách 1 Sử dụng phần bù đơn vị Ta có (1) (2) Mà (3) Từ (1), (2), (3) suy ra < Cách 2 Đưa về cùng mẫu, so sánh tử. Tìm mẫu chung của 2 mẫu BCNN(17, 27) = 17.27 = 459 (1) ; (2) Mà 405 < 425 nên (3) Từ (1), (2), (3) suy ra < Cách 3 Đưa về cùng tử, so sánh mẫu. Tìm tử chung của 2 tử BCNN(15,25) = 3.52 = 75 (1) ; (2) Mà 85 > 81 nên (3) Từ (1), (2), (3) suy ra < Cách 4 Sử dụng tính chất a.d < b.c thì với các mẫu b, d đều dương 15.27 < 17.25 ( Vì 405 < 425) suy ra < Ở ví dụ b này ta thấy ưu điểm hơn hẳn là cách 1 và cách 4 so với cách 2 và cách 3. Đối với cách 3 và cách 4 ta cần huy động nhiều kiến thức, thực hiện nhiều bước tính dễ dẫn đến sai sót còn cách 1và cách 4 thì ngược lại. Ví dụ 3 ( Bài 77 SGK Toán 6 tập 2 tr 35) Tính giá trị các biểu thức sau: với với Giải với Cách 1 Thực hiện theo thứ tự thực hiện các phép tính. Thay vào biểu thức . Ta được: Cách 2 Sử dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng, đặt a làm thừa số chung và thực hiện tính toán trong ngoặc trước sau đó mới thay giá trị . Thay vào biểu thức . Ta được: Vậy giá trị của biểu thức A tại là với Cách 1 Thực hiện theo thứ tự thực hiện các phép tính. Thay vào biểu thức . Ta được Cách 2 Sử dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng. Vậy giá trị của biểu thức đã cho tại bằng 0. Ở ví dụ này, ta thấy cách thứ 2 là cách giải tối ưu. Vì cách 2 thực hiện phép tính toán ít, số nhỏ. Cách 1 thì ngược lại. Trong quá trình dạy học, dạng toán này ta rất thường gặp. GV cần cho HS nắm được quy trình giải như sau: Bước 1: Rút gọn biểu thức đã cho (tùy theo nội dung bài toán mà ta có các cách rút gọn khác nhau). Bước 2: Thế giá trị của biến đã cho vào biểu thức đã được rút gọn. Bước 3: Tính giá trị của biểu thức số đã thu được ở bước 2. Bước 4: Trả lời: Vậy giá trị của biểu thức..tại .là. Ví dụ 4 ( Bài 141SGK Toán 6 tập 2 tr 58) Tỉ số của hai số a và b bằng . Tìm hai số đó biết rằng a – b = 8. Giải Cách 1 Sử dụng sơ đồ đoạn thẳng. Ta có như vậy a : b = 3 : 2. Ta có sơ đồ: Theo sơ đồ, ta được a = 8.3 = 24; b = 8.2 = 16. Cách 2 Sử dụng định nghĩa hai phân số bằng nhau và các phép biến đổi ttrong tính toán. Ta có Do đó Vì a – b = 8 nên Cách 3 Sử dụng biến số mới nên a = 3k; b = 2k ( Mà a – b = 8 suy ra 3k – 2k = 8 hay k = 8 Vậy a = 3k = 3.8 = 24; b = 2k = 2.8 = 16 Ở ví dụ này, cách 1 ta thấy rất đơn giản dựa vào sơ đồ đoạn thẳng HS sẽ có kết quả ngay. Nhưng không phải bài toán nào ta cũng sử dụng được cách này. Đối với cách 2 và cách 3 ta phải sử dụng nhiều phép biến đổi hơn, tính toán nhiều hơn. Nhưng đối với hai cách này ta có thể giải được mọi dạng toán có lời văn. Hai cách này GV cần hướng dẫn kỹ để HS lĩnh hội tốt về cách giải toán bằng cách lập phương trình và hệ phương trình sau này. Tóm lại: Khi giúp HS nắm được đặc điểm của mỗi dạng toán và biết lựa chọn cách giải nào cho phù hợp sẽ giúp các em ham thích học toán và tư duy ngày một càng phát triển. Đây là một nhiệm vụ không thể thiếu trong quá trình giảng dạy của mỗi GV. VI/ Bồi dưỡng năng lực sáng tạo ra bài toán mới 1. Cơ sở xác định biện pháp Trong quá trình giải toán HS thường lúng túng và thường không giải được đối với những dạng toán mà HS cho là lạ. Chính vì vậy, khi kiểm tra hoặc các em dự thi HS giỏi thường bị mất điểm đối với các dạng toán này. Vì thế trong quá trình hướng dẫn giải bài tập GV cần giúp HS quy các dạng toán mà các em cho là lạ về các dạng toán mà các em đã biết cách giải. 2. Nội dung của biện pháp HS rèn kĩ năng quy những bài toán lạ về những bài toán quen thuộc đã biết cách giải. Từ đó rèn cho HS tính kiên trì, sáng tạo trong học tập và dần hoàn thiện khả năng giải toán cho bản thân và vận dụng vào việc xử lí các tình huống phức tạp trong cuộc sống. 3. Yêu cầu của biện pháp Trong quá trình dạy toán nói chung và bồi dưỡng HS giỏi nói riêng, mỗi GV phải cố gắng không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tìm ra phương pháp giảng dạy mới nhất, hiệu quả nhất. Hướng dẫn HS pháp huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình huống khác nhau, không dừng lại ở cái đã biết mà phải quy những cái chưa biết về cái đã biết. Giúp các em hiểu được mình, tự làm chủ kiến thức toán học. 4. Các ví dụ minh họa Ví dụ 1 ( Bài 9.3 SBT Toán 6 tập 2 tr 24 ) a) Chứng tỏ rằng với thì b) Áp dụng kết quả câu a để tính nhanh Tìm hiểu nội dung bài toán GV gợi ý cho HS bằng hệ thống câu hỏi sau: Đối với câu a GV: Để chứng minh một đẳng thức ta có những phương pháp nào ? HS: Chứng minh vế trái bằng vế phải, vế phải bằng vế trái, hai vế của đẳng thức bằng biểu thức thứ ba. GV: Trong trường hợp này ta làm thế nào ? Vì sao ? HS: Ta chứng minh vế phải bằng vế trái. Vì vế phải phức tạp hơn. GV: Ta biến đổi vế phải bằng kiến thức nào ? HS: Vế phải ta có thể coi là phép trừ hai phân số không cùng mẫu. Do đó ta quy đồng mẫu và thực hiện phép trừ hai phân số không cùng mẫu ta sẽ có kết quả. Đối với câu b GV: Để tính giá trị của biểu thức A ta phải làm gì ? HS: Áp dụng kết quả của câu a ta phân tích. và sau đó thực hiện phép toán cộng các phân số sẽ có kết quả. Trình bài lời giải a) b) Sáng tạo bài toán mới Cùng với nội dung tính tổng ta có các bài toán sau: Bài toán 1 ( Bài 9.4 SBT Toán 6 tập 2 tr 24) Tính nhanh HS quy lạ về quen như sau: Chính vì vậy bài toán 1 đã biết cách giải: Bài toán 2 ( Bài 9.5 SBT Toán 6 tập 2 tr 24 ) Tính nhanh Học sinh quy lạ về quen Biến mẫu thành tích của hai số cách đều nhau. Tích của các mẫu là hai số cách đều hai đơn vị. Nên ta nhân tử cho 2 và chia mẫu cho 2 đối với mỗi phân số trong tổng. Chính vì vậy bài toán 2 đã biết cách giải. Bài toán 3 ( Bài 9.7 SBT Toán 6 tập 2 tr 24 ) Chứng tỏ rằng: HS quy lạ về quen như sau: HS dựa vào biểu thức trung gian để so sánh. Biểu thức trung gian của D với 1 là: . Chính vì vậy bài toán 3 đã biết cách giải. Như vậy, từ một đẳng thức đã được chứng minh, sau đó được áp dụng vào một bài toán cụ thể về tính tổng. Ta có thể giúp HS giải được các bài toán khác cùng loại với bài toán ban đầu nhưng khi chưa phân tích, tìm hiểu HS cứ tưởng đó là những bài toán hoàn toàn khác nhau. Tóm lại: Trong quá trình dạy toán nói chung, trong hướng dẫn HS giải bài tập nói riêng. Giúp HS lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến thức một cách linh hoạt là một vấn đề vô cùng quan trọng. Đặc biệt là việc giúp HS biết quy những bài toán lạ về các bài toán quen thuộc về các bài toán đã biết cách giải. Người GV làm được điều này thì sẽ nâng cao được năng lực giải toán của HS và giúp các em giành các thứ hạng cao trong các cuộc thi toán học. Góp phần đưa nền toán học của Viêt Nam ngày càng phát triển. C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Tổng số Giỏi Khá Trung bình Dưới trung bình 38 6 15 10 7 % 15,8 39,5 26,3 18,4 PHẦN III : KẾT LUẬN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ 1.Kết luận Sau khi áp dụng đề tài này vào trong giảng dạy tôi đã nhận thấy rằng hiệu quả của đề tài mang lại : tăng khả phân tích, khả năng tính toán, khả năng tư duy, khả năng lập luận một cách chính xác và logic, khả năng sáng tạo, hứng thú và say mê học toán hơn. Công việc bồi dưỡng năng lực giải toán cho em cần phải làm thường xuyên và làm lâu dài mới làm tăng khả năng giải toán cho các em.Qua đó cũng góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng giảng cũng như chất lương giáo dục ngày một đi lên. Từ đó tìm ra những học sinh năng khiếu trong nhà trường để có điều kiện bồi dưỡng cho các em và giúp các em phát huy hết khả năng giải toán của mình. Trên đây là một số ý mà bản thân tôi nghiên cứu tìm ra để quý thầy cô tham khảo. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn, để đề tài sẽ được ứng dụng có hiệu quả trong quá trình giảng dạy, góp phần năng cao chất lượng giáo dục ở địa phương. 2. Bài học kinh nghiệm Đề tài này tôi đã áp dụng tương đối thành công trong quá trình giảng dạy: - Học sinh nắm vững các kiến thức và khắc sâu được kiến thức cho các em. - Rèn luyện khả năng phân tích và tìm mối các quan hệ giữa các bài toán. - Tăng khả năng tính toán, suy luận logic, lập luận chặt chẽ. - Định hướng được các dạng bài toán để thực hiện. - Tăng khả năng sáng tạo và khả năng tự học của các em. - Thấy được hiệu quả của đề tài mạng lại. 3. Kiến nghị - Đề nghị nhà trường đầu tư thêm sách tham khảo, tranh ảnh và các đồ dùng phuc vụ cho việc dạy và học môn Toán. Hồng Dương, ngày 08 tháng 4 năm 2014 Người viết Trần Thị Ngọc ĐÁNH GIÁ CỦA TRƯỜNG THCS HỒNG DƯƠNG MỤC LỤC I. Mở đầu. 1.Lí do chọn đề tài. 2. Đối tượng nghiên cứu. 3. Mục đích nghiên cứu. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu. II. Nội dung. A. Cơ sở lí luận và thực tiễn. B. Giải pháp. I. Bồi dưỡng kiến thức cơ bản về phân số cho học sinh. II. Bồi dưỡng năng lực định hướng đường lối giải toán. III. Phân loại bài toán để bồi dưỡng năng lực giải toán cho các đối tượng hoc sinh. IV. Bồi dưỡng năng lực giải toán bằng nhiều cách và lựa chọn phương án tối ưu. V. Bồi dưỡng năng lực sáng tạo ra bài toán mới. III. Kết quả. 1. Kết luận. 2. Bài học kinh nghiệm. 3. Kiến nghị.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_toan_6.doc