Đề tài Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên trường THPT Trần Phú

A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Lý do khách quan:

Trong suốt nhiều năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta không ngừng phát triển và giành được những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Ngành giáo dục đã góp một phần quan trọng trong những thành tựu đó. Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hòa nhập với các nước trong khu vực và thế giới thì ngành giáo dục cần phải có sự đổi mới một cách tích cực về nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn của ngành giáo dục. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành công của các mục tiêu trên chính là chất lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường phổ thông.

 Xác định được vai trò quan trọng của ngành Giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Quốc hội, Chính phủ luôn luôn có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát đối với ngành:

- Chỉ thị 40/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành ngày 15/6/2004 đã thể hiện quan điểm hết sức coi trọng vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục để thực hiện hiệu quả những yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới giáo dục đào tạo, đáp ứng sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

 - Nghị quyết Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.

- Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam về Giáo dục – Đào tạo

- Luật Giáo dục 2007 và Pháp lệnh công chức năm 2010 đều nêu rõ công chức được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.

- Năm học 2010-2011 là năm thực hiện thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT về chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông. Để đáp ứng được các tiêu chuẩn và tiêu chí của quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên thì công tác bồi dưỡng giáo viên lại càng phải được chú trọng.

 

doc20 trang | Chia sẻ: myhoa95 | Lượt xem: 1842 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên trường THPT Trần Phú", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................
	Người đề nghị
	(Ký và ghi rõ họ tên)
Bước 2: Các tổ cho giáo viên đăng ký kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng
Bước 3: Thư ký hội đồng nhà trường tổng hợp các kết quả ở bước 1, bước 2
Bước 4: Căn cứ vào kết quả đã tổng hợp, nhà trường phân nhóm và thống nhất nội dung, lập kế hoạch bồi dưỡng, kiểm tra hoạt động bồi dưỡng của giáo viên.
Bước 5: Quán triệt kế hoạch, nội dung bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên trong các tổ chuyên môn, các tổ chức đoàn thể: Công đoàn, Đoàn thanh niên CSHCM.
Kết quả thu được ở bước 2 như sau:
Stt
Nội dung (nhu cầu) bồi dưỡng của 
giáo viên
Số giáo viên đăng ký
Ghi chú
1
Bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ (Soạn, giảng, ra đề kiểm tra, chủ nhiệm)
11
2
Bồi dưỡng thi giáo viên giỏi
15
3
Bồi dưỡng Tin học
6
4
Ôn thi Cao học
6
TỔNG CỘNG
38
 2.2 Lập bảng phân nhóm bồi dưỡng và tổ chức hoạt động
2.2.1 Nhóm 1: Giáo viên cần bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ.
Stt
Họ tên Giáo viên
Bộ môn
Người phụ trách
1
Nguyễn Trung Kiên
Toán
Nguyễn Ngọc Duật
2
Lê Ngọc Phùng
Toán
3
Đoàn Khắc Trung Ninh
Toán
4
Lê Thị Nhung
Tin
Thái Huy Tâm
5
Nguyễn Thị Thuỷ Tiên
Tin
6
Đặng Khắc Hạnh
Vật lý
Trần Ngọc Nhơn
7
Trần Ngọc Hùng
Vật lý
8
Trịnh Văn Đức
Sinh
Nguyễn Thị Phương Dung
9
Nguyễn Thị Hoài
Tiếng Anh
Nguyễn Thị Thuỳ Dung
10
Lê Thị Loan
Tiếng Anh
11
Nguyễn Hoàng Thuận
TD-QP
Nguyễn Ngọc Ban
Nội dung bồi dưỡng của nhóm 1:
a) Soạn giáo án: 
Giáo viên tự nghiên cứu cách thực hiện một giáo án, bao gồm: Hình thức, cấu trúc, nội dung, các tài liệu dùng để biên soạn. Tham khảo các giáo án của những giáo viên giỏi, giáo án trên mạng Internet...
Phân theo từng nhỏ để trao đổi, bàn bạc và tranh thủ ý kiến của người phụ trách để điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung nếu cần. 
Toàn thể nhóm chọn lựa thời gian hợp lý (thường thì vào các buổi sáng thứ 3 hàng tuần nhà trường dành thời gian cho hội họp) trao đổi, rút ra những điều tâm đắc, những thủ thuật hay trong soạn giáo án để học tập lẫn nhau.
Nhà trường cử một lãnh đạo nhà trường tham gia buổi trao đổi này để lắng nghe, tháo gỡ những khó khăn cho giáo viên và thống nhất những nội dung đã đạt được qua thảo luận. Khẳng định lại những yêu cầu bắt buộc trong soạn bài là đảm bảo nội dung, phù hợp với các đối tượng học sinh, đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả...
b) Dự giờ của giáo viên giỏi, giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy:
Nhóm giáo viên này sẽ căn cứ vào thời khoá biểu, chủ động liên hệ với giáo viên dạy để được dự giờ. Cần xác định rõ để quan sát (học được) những nội dung cụ thể nào: Cách nói (diễn đạt) nhanh, chậm, cách trình bày bảng, cách đặt câu hỏi, cách tổ chức cho học sinh hoạt động...
c) Giảng bài: Đây là nội dung quan trọng để khẳng định trình độ tay nghề của giáo viên. 
Từ việc soạn giáo án, dự giờ của giáo viên giỏi cho đến tự mình giảng bài là một chặng đường dài để đi đến thành công.
Giáo viên trẻ có ưu điểm là nhiệt tình "cháy hết mình" trong giảng dạy, có kiến thức và kỹ năng tin học tốt nhưng có nhược điểm là tham lam kiến thức, nói nhiều, nói nhanh và hay làm thay công việc của học sinh; ghi trên bảng nhiều và cũng cho học sinh ghi nhiều, không cô đọng được kiến thức trọng tâm.
Để phát huy được những ưu điểm và khắc phục những tồn tại nêu trên nhà trường tổ chức buổi toạ đàm, giao lưu giữa các thế hệ giáo viên với nhau, mỗi giáo viên trẻ tự suy nghĩ, tìm tòi những giải pháp khắc phục nhược điểm, nêu ra ý kiến của mình cho mọi người thảo luận. Qua đóng góp ý kiến của các giáo viên giỏi đã đi đến một số thống nhất sau:
+ Nội dung giảng dạy phải bám sát chuẩn kiến thức, tuỳ vào đặc điểm học sinh mỗi lớp mà giáo viên cân nhắc để phát triển kiến thức phù hợp với trình độ tiếp thu của các em; đặt ra và trả lời được câu hỏi: "học xong tiết này học sinh cần nắm được nội dung cốt lõi nào của bài? Làm những gì để học sinh để học sinh có thể nắm được những điều cốt lõi đó?"
+ Biết dành thời gian hợp lý cho những kiến thức trọng tâm của tiết dạy;
+ Không ghi chép nhiều trên bảng, cũng như không nên cho học sinh chép nhiều trong tập (vì mọi kiến thức đã có trong SGK). Dạy cho họs sinh biết kết hợp hài hoà các hoạt động: lắng nghe - tìm tòi, suy gẫm - thảo luận (phát biểu ý kiến) - ghi chép. Chỉ rõ hoặc gợi ý những nội dung cần học ở nhà.
+ Nói chậm, rõ ràng, lựa chọn hệ thống câu hỏi khéo léo để phát huy được tính tích cực, chủ động của các đối tượng học sinh;
+ Đa số học sinh trong lớp có lực học yếu, do đó cần phải luyện tập đức tính kiên nhẫn, tạo ra được không khí nhẹ nhàng, vui vẻ cho tiết học (một chút hài ước của giáo viên sẽ làm cho học sinh bớt căng thẳng và có hưng phấn hơn trong học tập).
Sau những hoạt động: soạn giáo án, dự giờ của giáo viên giỏi, những kinh nghiệm học được từ đồng nghiệp chất lượng tiết dạy của giáo viên có chuyển biến rõ rệt. Đầu năm tỷ lệ tiết dạy (của nhóm giáo viên này) đạt yêu cầu 65% khá 35% thì cuối năm xếp loại tiết dạy Giỏi 20%, tiết dạy Khá 55%, tiết dạy Đạt yêu cầu còn 25%.
d) Soạn đề kiểm tra, chấm bài:
Sau nhiều năm phụ trách chuyên môn tôi nhận thấy giáo viên trẻ thường ra đề kiểm tra khó hơn, dài hơn, vụn vặt hơn so với những giáo viên đã có kinh nghiệm giảng dạy. Hệ quả của việc này là điểm bài kiểm tra một tiết của các lớp không ổn định (do nhà trường tổ chức bốc thăm đề kiểm tra một tiết), Ban giám hiệu rất khó đánh giá chính xác tình hình giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh. Trước thực trạng này nhà trường tổ chức cho toàn thể giáo viên rèn luyện kỹ năng ra đề thông qua việc lập ma trận (nội dung này cũng rất thuận lợi khi Sở GD-ĐT tổ chức tập huấn chuyên môn cho tổ trưởng và giáo viên cốt cán ngay từ đầu năm). Mỗi giáo viên ra một đề kiểm tra, kèm ma trận sau đó trình bày trước tổ chuyên môn để thảo luận, rút kinh nghiệm. 
e) Tham gia thao giảng: 
Bản thân mỗi giáo viên đều muốn tự khẳng định mình. Thao giảng là cách tốt nhất để giáo viên thể hiện được khả năng chuyên môn, trình độ tay nghề của bản thân, đồng thời cũng thể hiện sự cầu tiến của mình. Qua thao giảng giáo viên còn được đồng nghiệp góp ý kiến để phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại. Trước đây, công tác thao giảng chỉ tiến hành theo phong trào và thường gắn với các sự kiện lịch sử, văn hoá. Với mục đích thao giảng để nâng cao chất lượng chuyên môn, trình độ tay nghề nên công việc thao giảng được lập kế hoạch ngay từ đầu năm, nhà trường bố trí lịch hợp lý để các giáo viên của nhóm này đều có thể tham gia được và mỗi giáo viên được thao giảng nhiều lần trong năm học.
Theo đánh giá của ban kiểm tra hoạt động sư phạm của nhà trường và báo cáo của nhóm phụ trách, tuy vẫn còn những vấn đề cần phải bồi dưỡng thêm nhưng kết quả đạt được rất khả quan, nhiều giáo viên trẻ ở cuối năm học đã rất chững chạc, tự tin trong giờ dạy, được đồng nghiệp khen, học sinh mến. Kết quả đạt được đã làm cho họ phấn khởi và yêu nghề nhiều hơn.
2.2.2Nhóm 2: Bồi dưỡng về tin học
Stt
Họ tên Giáo viên
Bộ môn
Người phụ trách
1
Nguyễn Thị Hương Lài
Văn
Thái Huy Tâm
Lê Thị Nhung
2
Đặng Thị Thanh Hải
Văn
3
Đặng Thị Sen
Lịch sử
4
Nguyễn Thị Lam
Lịch sử
5
Lê Thị Trang
Địa lý
6
Hồ Thị Hợp
GDCD
Nhóm này là giáo viên thuộc các bộ môn khoa học xã hội, trước đây rất ít tiếp cận với máy tính hoặc chỉ sử dụng máy tính để ra đề kiểm tra. Khi nhà trường đưa ra chỉ tiêu phải có tiết dạy bằng công nghệ thông tin thì nhóm giáo viên này mới thật sự có nhu cầu bồi dưỡng về tin học.
Kế hoạch bồi dưỡng được lập ra mỗi tuần một buổi (vào chiều thứ 7). Nội dung bồi dưỡng tập trung vào các phần mềm soạn giáo án. Kiến thức tin học rất rộng, do đó quan điểm bồi dưỡng cho nhóm này là cần kiến thức nào thì bồi dưỡng kiến thức đó, lâu dần sẽ có vốn kiến thức tin học để tự mình có thể giải quyết được.
Bên cạnh tập trung bồi dưỡng tin học cho nhóm giáo viên trên thì các thành viên phụ trách có nhiệm vụ tìm hiểu các phần mềm hay, thiết thực hoặc các thủ thuật tin học giới thiệu cho toàn thể giáo viên của nhà trường để mọi người thử nghiệm và tự nâng cao kỹ năng tin học cho mình.
Kết quả đạt được là các giáo viên trong nhóm cần bồi dưỡng về tin học đã có thể tự mình tạo được các hiệu ứng trong soạn giáo án điện tử, biết cách chèn hình ảnh, âm thanh, tìm kiếm tài liệu trên mạng ... 
2.2.3 Nhóm 3: Bồi dưỡng giáo viên giỏi cấp trường, tạo nguồn cho hội thi giáo viên giỏi cấp tỉnh:
Stt
Họ tên Giáo viên
Bộ môn
Người phụ trách
1
Lương Thị Mỹ Thuỳ
Toán
Hà Xuân Văn
Nguyễn Ngọc Duật
Nguyễn Thị Phương Dung
2
Đỗ Thị Thuỷ
Toán
3
Thái Huy Tâm
Tin học
4
Nguyễn Anh Tuân
Vật lý
5
Trần Hoài Nam
Vật lý
6
Nguyễn Thị Thuỳ Trang
Hoá học
7
Huỳnh Thị Xuân Lộc
Hoá học
8
Dương Thị Tiến
Văn
Lê Việt Hùng
Đặng Thị Sen
Ngô Thị Thuý Lan
9
Danh Thị Kiều Oanh
Văn
10
Đinh Thị Thuý Linh
Lịch sử
11
Lê Thị Trang
Địa lý
12
Hồ Thị Hợp
GDCD
13
Nguyễn Quang Thiện
TD-QP
14
Nguyễn Thị Thuỳ Dung
T.Anh
15
Trịnh Thị Minh Tâm
T.Anh
Đây là nhóm có số năm công tác từ 5 năm trở lên, đã có kinh nghiệm giảng dạy và quản lý học sinh. Nội dung bồi dưỡng của nhóm này là:
+ Kỹ năng soạn giáo án.
+ Đổi mới phương pháp giảng dạy; tổ chức, điều khiển học sinh hoạt động trong tiết dạy.
+ Làm sáng kiến kinh nghiệm.
Mỗi giáo viên thuộc nhóm này mỗi kỳ sinh hoạt tổ, nhóm phải báo cáo một giáo án (sẽ dạy trong tuần sau), trình bày rõ ý tưởng soạn, cách tổ chức cho học sinh hoạt động trong tiết dạy, tổ nhóm góp ý. Trong buổi sinh hoạt lần sau báo cáo kết quả thực hiện để rút kinh nghiệm. Nhóm phụ trách lập kế hoạch dự giờ để cùng trao đổi, rút kinh nghiệm tiết dạy. 
Năm học 2010-2011 trong số 15 giáo viên nói trên có 11 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp trường (năm học này sở Giáo dục - Đào tạo không tổ chức hội thi giáo viên dạy giỏi bậc trung học phổ thông cấp tỉnh)
2.2.4 Nhóm 4: Lập danh sách dự kiến giáo viên học trên chuẩn.
Stt
Họ tên Giáo viên
Bộ môn
Người phụ trách
1
Nguyễn Ngọc Duật
Toán
Nguyễn Đình Thiện
2
Thái Huy Tâm
Tin học
3
Hà Xuân Phong
Hoá học
4
Lê Văn Trung
Sinh vật
5
Lê Việt Hùng
Văn
6
Đinh Thị Thuý Linh
Lịch sử
Đây là những giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, ham tìm tòi nghiên cứu, có khả năng về ngoại ngữ, có điều kiện (hoàn cảnh gia đình, bản thân) để có thể theo học. Nhóm này được ưu tiên bố trí thời gian ôn thi. Nếu có vướng mắc công tác nhà trường sẽ sắp xếp hợp lý, đáp ứng yêu cầu của giáo viên. 
Trong số các giáo viên thuộc nhóm trên hiện đã có 3 giáo viên đăng ký ôn thi tại các trường ĐHSP TP.Hồ Chí Minh và ĐH KHTN TP.Hồ Chí Minh. Có một giáo viên hiện đang học Thạc sĩ ngành Hoá. 
C. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 
Thực hiện công văn số 1545/SGDĐT-VP về việc đăng ký sáng kiến kinh nghiệm nên ngay từ đầu năm đề tài này đã được nghiên cứu và tổ chức thực hiện. Quá trình viết sáng kiến này cũng diễn ra đồng thời với những hoạt động được trình bày ở trên. Trong các hoạt động này có những hoạt động đã đi vào nề nếp, có những hoạt động đang bắt đầu, có những hoạt động cần có thời gian dài hơn mới thấy được kết quả. Ở góc độ khoa học và thực tiễn bước đầu cho thấy những hoạt động này là đúng hướng, cần phải duy trì, hoàn thiện và phát huy. Việc tổ chức thực hiện cũng gặp rất nhiều khó khăn do tâm lý ngại ngùng cùa giáo viên và cũng là lần đầu tiên tổ chức thực hiện nên mọi người chưa quen. Một khó khăn khác nữa khi thực hiện sáng kiến này là công việc của nhà trường và của mỗi giáo viên là khá nhiều, phải tốn nhiều công sức để bố trí thời gian hợp lý, nếu không các hoạt động sẽ chồng chéo lên nhau. Tuy nhiên hoạt động này đã tìm được sự ủng hộ của chi bộ, Ban giám hiệu nhà trường và sự đồng thuận của giáo viên, bên cạnh đó mọi người đều xác định được đây là một hoạt thường xuyên, liên tục nên sáng kiến này cũng đã thu được những lợi ích thiết thực. Đó là:
- Sau bồi dưỡng, trình độ chuyên môn được nâng lên, các nhu cầu bồi dưỡng của mỗi người được đáp ứng. Góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Hoạt động này đã trở thành phong trào của cả một tập thể, lôi cuốn những người trước đây ít quan tâm hoặc tự bằng lòng với trình độ của mình tham gia tích cực. 
- Hoạt động này tạo ra một tiền đề tốt trong công tác bồi dưỡng giáo viên cho những năm tiếp theo. Theo lộ trình, các đối tượng bồi dưỡng được chuyển tiếp dần lên một mức độ cao hơn.
- Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên cũng đã tạo ra một nề nếp làm việc khoa học, hạn chế được các sai sót vẫn thường xảy ra như ghi chép sổ sách sai quy định, thực hiện không đúng kế hoạch chuyên môn (trễ tiết, trước tiết so với phân phối chương trình). 
- Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên còn mang một ý nghĩa tích cực khác, đó là: tạo ra một tập thể đoàn kết, nhất trí, có tinh thần trách nhiệm, gắn bó mọi người với nhau, gần nhau, hiểu nhau, tương trợ giúp đỡ nhau trong công tác cũng như cuộc sống. 
Sau đây là bảng thống kê số liệu kết quả đạt được của năm học 2010-2011 so với năm học 2009-2010
Bảng 1: 
Các mặt hoạt động
Năm học 2009-2010
Năm học 2010-2011
Số lượng
Tỷ lệ 
Số lượng
Tỷ lệ 
Giáo viên tự bồi dưỡng
20/45
44,4%
46/46
100%
Giáo viên dạy giỏi cấp trường
11/45
24,4%
20/46
43,5%
Giáo viên biết ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
36/45
80%
42/46
91,3%
Giáo viên ôn thi Thạc sĩ
1/45
2,2%
6/46
13%
Bảng trên cho thấy so với năm học 2009-2010, năm học 2010-2011 khi tổ chức bồi dưỡng giáo viên theo đề tài này số lượng giáo viên tham gia bồi dưỡng tăng 27 người, giáo viên dạy giỏi cấp trường tăng lên 11 người, 100% giáo viên đã có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy; số giáo viên ôn thi trên chuẩn đã tăng lên 6 (hiện có 1 giáo viên đang học thạc sĩ) và nằm trong quy hoạch nhân sự của nhà trường.
Bảng 2. Trình độ tay nghề:
Năm học
Số lượng GV
Trình độ tay nghề
Giỏi
Khá
Đạt YC
Cấp tỉnh
Cấp trường
2009-2010
45
8
9
16
12
2010-2011
46
8
20
13
5
Bảng 3: Chất lượng giáo dục (chỉ thống kê kết quả học sinh lớp 12, do lớp 10, 11 cuối tháng 5/2011 mới có số liệu)
 Kết quả xếp loại Học lực (tính theo tỷ lệ %)
Năm học
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
Kém
2009-2010
1,5
19,2
57,1
21,7
0,5
2010-2011
1.7
20,2
60,7
17,4
0
 Kết quả xếp loại Hạnh kiểm (tính theo tỷ lệ %)
Năm học
Tốt
Khá
Tb
Yếu
2009-2010
47,0
38,9
14,1
0
2010-2011
53,4
39,9
6,7
0
So với năm học 2009-2010 thì năm học 2010-2011 kết quả giáo dục được nâng cao hơn, tuy rằng có thể chưa phải là cao như mong muốn nhưng để có được thành tích đó là cả một sự nhọc nhằn trên từng tiết dạy của giáo viên.
Kết quả xếp loại các mặt giáo dục ở trên so với các trường khác có thể là rất thấp, song đối với trường THPT Trần Phú, nơi có chất lượng đầu vào thấp (trúng tuyển 20 điểm, không có hồ sơ dự tuyển nào bị loại), thì đây là một sự có gắng rất lớn trong công tác, trong bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của tập thể cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhà trường. 
Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên đã đem lại hiệu quả thiết thực cho nhà trường. Có được kết quả đó phải nói thêm về sự quan tâm của hiệu trưởng nhà trường, Hội cha mẹ học sinh trong năm học này. Cụ thể:
- Hiệu trưởng đã chỉ đạo bộ phận xếp thời khóa biểu ưu tiên dành thời gian cho giáo viên tham gia hoạt động bồi dưỡng một cách thuận lợi nhất.
- Sự dụng linh hoạt, hợp lý nguồn kinh phí để chi cho công tác bồi dưỡng giáo viên
- Mua thêm 6 máy vi tính, kết nối Internet phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của giáo viên. 
- Mua thêm một màn hình LCD 46 inch và bộ loa phục vụ cho tiết dạy sử dụng công nghệ thông tin. 
- Hội cha mẹ học sinh hỗ trợ nguồn kinh phí động viên, khen thưởng giáo viên
D. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Hoạt động bồi dưỡng giáo viên đã được ngành giáo dục tổ chức thực hiện qua các chu kỳ bồi dưỡng thường xuyên, hiệu quả của công tác này đã góp phần làm cho người thầy nắm vững nội dung kiến thức chương trình, thúc đẩy đổi mới phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, với đặc điểm riêng từng trường, chỉ dựa vào nội dung, chương trình bồi dưỡng do cấp trên tổ chức thì chưa đủ, bởi vì hoạt động bồi dưỡng phải diễn ra thường xuyên thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển. 
Đề tài này đã được nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn tại trường THPT Trần Phú, đã mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên không phải là mới, nhưng để làm cho khoa học, hiệu quả, mang tính ổn định, theo một kế hoạch đã xây dựng chi tiết thì đây là lần đầu tiên nhà trường thực hiện. Cũng vì lý do đó đề tài vẫn còn những khiếm khuyết phải được sữa chữa, điều chỉnh trong những năm tiếp theo để nó được hoàn thiện và mang lại hiệu quả thiết thực hơn nữa. Mỗi trường có một đặc điểm riêng về đội ngũ giáo viên, tôi tin rằng những trường những có đặc điểm về đội ngũ gần giống như trường THPT Trần Phú khi áp dụng đề tài này đều đem lại hiệu quả thiết thực.
Để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên cần phải:
- Chi bộ, Ban giám hiệu nhà trường phải xác định tầm quan trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên từ đó có sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên. 
- Đánh giá đúng vai trò của đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, chỉ khi đó mới phát huy hết khả năng của họ đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho nhân dân và toàn xã hội nhận thức rõ vai trò quan trọng của đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
- Làm tốt công tác tư tưởng và tìm được sự đồng thuận của tập thể giáo viên. Các nội dung bồi dưỡng phải là nhu cầu mà mỗi giáo viên mong muốn có được. Đặc biệt phải bố trí lịch giảng dạy sao cho giáo viên có thời gian để tham gia bồi dưỡng.
- Phải xây dựng một kế hoạch khoa học, phù hợp với đặc điểm của nhà trường. Quá trình thực hiện phải có sự kiểm tra, động viên của ban lãnh đạo nhà trường.
- Cần đề cao vai trò tự bồi dưỡng - học tập suốt đời của mỗi giáo viên, có sự khuyến khích biểu dương kịp thời. Hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên thuận lợi nhất là trong thời gian nghỉ hè. 
Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý giáo dục cấp trên:
- Thường xuyên nhắc nhở, chỉ đạo Ban giám hiệu các trường quan tâm thực hiện công tác bồi dưỡng giáo viên.
- Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi giáo viên, tuy nhiên để tổ chức hoạt động như nội dung của đề tài, đề nghị cần có một khoản kinh phí chi hỗ trợ.
- Cần quan tâm hơn nữa đến công tác thuyên chuyển, tiếp nhận giáo viên đối với các trường vùng ven, vùng sâu, qua đó giúp cho nhà trường có đội ngũ giáo viên ổn định, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. 
- Phải quản lý chặt chẽ hơn nữa việc cấp chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cho người học ngành khác để được tuyển dụng làm giáo viên. 
- Khi xét về thi đua cần tính đến chất lượng đầu vào của mỗi trường. Vấn đề thành tích luôn là áp lực đối với trường có chất lượng học sinh thấp, theo đó việc ghi nhận của các cấp quản lý đối với sự nỗ lực công tác, sự tiến bộ của giáo viên trong trường ít nhiều còn thiếu khách quan, có phần thiệt thòi. 
	NGƯỜI THỰC HIỆN
	Hà Xuân Văn
E. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quản lý nhân sự trong nhà trường - Th.S Nguyễn Thị Thu Hiền, GVC trường Cán bộ Quản lý TP. Hồ Chí Minh - Chỉnh lý bổ sung năm 2010
2. Chỉ thị 40 của BCHTW ngày 15/6/2004 về việc: "nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục"
3. Phát triển giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và trước nhu cầu hội nhập quốc tế. Chính sách phát triển giáo viên - Viên nghiên cứu giáo dục - ĐHSP TP. Hồ Chí Minh - tháng 02/2009
4. Công tác tự bồi dưỡng của giáo viên - Th.S Vũ Thị Thu Hiền, giảng viên trường Cán bộ quản lý Giáo dục TP. Hồ Chí Minh- bài viết đăng trên tạp chí "Dạy và học ngày nay" của Trung ương hội khuyến học Việt Nam số 4/2011.
5. Đề án số 09 về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010 của Thủ tướng Chính phủ.
6. Luật công chức năm 2010.
7. Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về qui định chuẩn nghề nghiêp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông

File đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_boi_duong_giao_vien_truong_thpt_tran_phu_7834.doc
Sáng Kiến Liên Quan