Đề tài Phát huy hoạt động gợi động cơ mở đầu trong dạy học môn Toán lớp 10
Toán học là môn Tự nhiên mà đặc thù của bộ môn này có phần khô khan và cứng
nhắc nên khó đối với một bộ phận học sinh. Thậm chí nhiều em còn cảm thấy “sợ”
mỗi khi buổi học nào đó có tiết Toán. Từ khi còn là một giáo viên trẻ mới ra trường,
chập chững bước vào nghề dạy học, không ít lần học sinh hỏi tôi “ Học Toán để làm
gì thế cô? Thuộc bao nhiêu công thức lượng giác, giải bao nhiêu phương trình rồi
cũng thế thôi, sau này em đâu cần nhớ tới! ”. Vì thế tôi luôn trăn trở mỗi khi soạn giáo
án trước khi lên lớp là làm thế nào để bài học hấp dẫn, thú vị, dễ hiểu và quan trọng là
các em học sinh cần biết được mính sắp được học cái gì, học để làm gì.
Nhà khoa học Usinki (1824 – 1870) đã từng nói rằng: “ Anh sẽ nói gì về người
kiến trúc sư khi ông ta khởi công xây dựng một ngôi nhà mới mà ông ta không thể trả
lời được cho anh rằng, đó là một ngôi đền để thờ thần Chân lý, Tình yêu hay Lẽ phải;
hay chỉ là một ngôi nhà để sống tiện nghi; hay một cái cổng thành đẹp đẽ lộng lẫy một
cách vô ích để những người đi qua đường chiêm ngưỡng; hay một khách sạn mạ vàng
để vơ vét tiền của những người đi du lịch tiêu xài hoang phí, hay là một cái nhà cuối
cùng – một cái kho để chứa đồ cũ - mà trên đời này không ai cần đến cả? Anh cũng
sẽ nói những điều tương tự với nhà giáo dục khi ông ta chưa xác định được rõ ràng và
chính xác cho anh về mục đích của hoạt động giáo dục của ông ta” .
Qua thực tế dạy học và quan sát tôi nhận thấy học sinh không thích môn Toán
phần lớn do các em mất căn bản từ lớp dưới, không theo kịp chương trình đang học;
học sinh ngồi học trong lớp không tập trung theo dõi bài giảng vì không thấy sự cần
thiết của bài học đó và vì chưa có động lực học tập. Đối với học viên của hệ Giáo dục
thường xuyên thì vấn đề đó càng khó khăn hơn nữa vì trình độ tiếp thu của các em
thấp hơn rất nhiều so với học sinh phổ thông. Làm thế nào để học sinh quan tâm đến
bài học ngay từ phần mở đầu, trả lời cho các em câu hỏi học để làm gì là cả một nghệ
thuật soạn giáo án của người giáo viên. Vì thế tôi chọn đề tài “ Phát huy hoạt động
gợi động cơ trong giảng dạy môn Toán lớp 10 ”.
ộng lớn và thực tế ở những môn học khác. Tất nhiên phải bao hàm tính chân thực và không đòi hỏi nhiều tri thức quá khó. Từ nội bộ Toán học : nêu một vấn đề toán học xuất phát từ nhu cầu của toán học. Một số cách để thực hiện “ gợi động cơ mở đầu”: Đáp ứng nhu cầu để xóa bỏ một sự hạn chế. Hướng tới sự tiện lợi và hợp lí hóa công việc. Chính xác hóa một khái niệm nào đó. Hướng tới sự hoàn chỉnh và hệ thống. Lật ngược vấn đề. Xét tính tương tự. Khái quát hóa một vấn đề. Tìm sự liên hệ và phụ thuộc. Để phát huy tác dụng kích thích, thúc đẩy hoạt động học tập của học sinh cần phối hợp nhiều cách gợi động cơ khác nhau nhưng nên chú ý đến xu hướng phát triển của cá nhân học sinh. Sách giáo khoa môn Toán được biên soạn chú trọng sự chính xác khoa học; đảm bảo giữa các yếu tố : hiện đại ( xác suất – thống kê), hội nhập ( máy tính cầm tay, số phức), liên môn ( đảm bảo học viên được chuẩn bị kiến thức toán để học các môn khác). Với đặc điểm của người học chương trình GDTX cấp THPT, ngoài học viên là thanh niên ở tuổi phổ thông, người học còn đa dạng về độ tuổi, hoàn cảnh gia đình, khả năng hiểu biết và vốn kinh nghiệm sống. Các nghiên cứu về giáo dục học cho thấy, một trong những nguyên nhân góp phần tạo ra một quá trình học có hiệu quả cho học viên tiếp thu tốt nhất là bài học được mô tả gần với thực tế. Dạy cho đối tượng này là nhiệm vụ khá khó khăn, nói về cái gì đó quá khó, mang tính hàn lâm thì các em không hiểu được. Vì thế mà giáo viên cần nhiều sự trợ giúp và tôi chọn trợ giúp của lịch sử của toán học, kiến thức về các môn khoa học có liên quan, để làm cho kiến thức mà ta truyền đạt bớt khô khan, biến toán học thành một môn học hấp dẫn, thích thú đối với học sinh, làm cho các giờ toán trở nên sôi nổi, hứng thú hơn với các em. Với chương trình Toán 10 dạy cho đối tượng học viên hệ GDTX, điều này thật sự cần thiết, vì các em mới bước từ trường THCS lên THPT, kiến thức mỗi bài nhiều và khó hơn, cách học cũng phải thay đổi sao cho phù hợp. Thực hiện hoạt động gợi động cơ khi bắt đầu bài học của một chương hay một bài, tôi chọn hướng đan xen với cách nói đơn giản là giới thiệu nội dung các em học trong chương, vận dụng kiến thức đó để làm gì là các câu chuyện về những nhà Toán học nổi tiếng mà cuộc đời của họ có thể sẽ mang lại cho các em những bài học thú vị về giáo dục nhân cách và lối sống. 2. Minh chứng quá trình thực nghiệm giải pháp: Ví dụ với Chương I của Đại số 10, tôi thực hiện như sau: “ Chương I Mệnh đề - Tập hợp sẽ cung cấp cho chúng ta những kiến thức mở đầu về logic toán và tập hợp. Các khái niệm về mệnh đề và các phép toán về tập hợp sẽ giúp các em diễn đạt nội dung toán học thêm rõ ràng và chính xác, đồng thời giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về suy luận và chứng minh trong toán học. Bởi vậy chương này có ý nghĩa quan trọng với việc học tập môn toán.” Với bài học về Tập Hợp trong Chương I , tôi lồng ghép một câu chuyện về nhà toán học mà cuộc đời của ông mãi là tấm gương sáng về nghị lực sống : “Tập hợp là một trong những khái niệm cơ bản của toán học mà các em đã làm quen ở lớp dưới. Hôm nay trước khi vào bài học cô muốn kể cho các em nghe một câu chuyện về một nhà toán học. Ông là người sáng lập nên lí thuyết tập hợp, tên ông là Ghê-ooc Canto (1845-1918) – nhà toán học Đan Mạch gốc Nga – sinh ra trong một gia đình có bố là một thương gia, mẹ là một nghệ sĩ. Ba mẹ muốn ông trở thành một kĩ sư vì nghề này kiếm được nhiều tiền hơn nên đã có những hành động ngăn cấm ông theo học ngành toán. Nhưng ông vẫn đam mê và quyết tâm với hoài bão theo nghành Toán học nên đã cố gắng thuyết phục ba mẹ đồng ý. Sau này, tuy có những thời gian dài đau ốm phải nằm viện nhưng ông vẫn không ngừng sáng tạo ra những công trình toán học để lại dấu ấn sâu sắc cho thế hệ sau. Hi vọng rằng qua câu chuyện vừa rồi các em sẽ học được một bài học về tấm gương vượt qua mọi khó khăn, không ham tiền bạc vật chất để sống có ý nghĩa và luôn cố gắng thực hiện được ước mơ của mình.” Khi bắt đầu với Chương II Phương trình và Hệ phương trình của Đại số 10, tôi thực hiện theo cách hướng tới sự hoàn chỉnh và hệ thống: “ Từ thuở xa xưa, trong lịch sử phát triển của ngành Toán học, phương trình đã là vấn đề trung tâm của Đại số học. Tiếp nối chương trình ở lớp dưới, trong Đại số 10, các vấn đề về phương trình và hệ phương trình sẽ được trình bày chính xác hơn, đầy đủ hơn và hệ thống hơn. Đồng thời cung cấp cho chúng ta cách giải nhanh gọn các phương trình và hệ phương trình thường gặp.” Dạy bài Hàm số bậc hai, tôi xuất phát từ những hình ảnh đã trở nên quen thuộc với các em trong cuộc sống : “ Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh của những đường cong đơn giản nhưng tuyệt đẹp. Đó là khi ta ngắm cảnh bắn pháo hoa vào đêm giao thừa, hay khi đi qua bể phun nước ở một công viên nào đó. Và cũng có những công trình kiến trúc dược thiết kế theo hình dạng đường cong đó như cổng trường đại học bách khoa Hà nội, cổng Acxơ – biểu tượng du lịch của thành phố Xanh Lu-I ở Mĩ và còn nhiều công trình khác nữa. Vì sự hoàn mỹ và đối xứng của đường cong đó không chỉ đảm bảo tính bền vững mà còn tạo nên vẻ đẹp của công trình. Có bạn nào biết đường cong này trong toán học gọi tên là gì không?...Vâng! Một cái tên quen thuộc Parabol- đồ thị của hàm số bậc hai mà chúng ta đã học ở lớp dưới. Và hôm nay chúng ta sẽ gặp lại hình ảnh đó khi học bài Hàm số bậc hai.” Với Chương Thống kê, Lượng giác tôi nhấn mạnh tới ứng dụng và vai trò của chúng trong thực tế: “Trong đời sống hiện nay, thống kê ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng đối với mọi ngành kinh tế xã hội. Thống kê giúp chúng ta phân tích các số liệu một cách khách quan và rút ra nhiều thông tin ẩn chứa trong các số liệu đó. Vì thế thống kê cần thiết cho mọi lực lượng lao động. Ví dụ như khi một nhà sản xuất tung ra thị trường một loạt sản phẩm mới, sau một thời gian họ cần tham khảo ý kiến người tiêu dùng, khi đó họ phải đi thu thập, tìm kiếm thông tin, số liệu, phân tích và xử lí chúng để vạch ra chiến lược kinh doanh và phương hướng sản xuất mặt hàng nào , phân phối ở đâu để lợi nhuận cao nhất. Và đó là nhiệm vụ của thống kê. Ngay từ đầu thế kỉ XX, khi Thống kê mới xuất hiện, nhà khoa học người Anh, Oen đã dự báo rằng trong tương lai không xa, kiến thức về thống kê sẽ trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong học vấn phổ thông của mỗi công dân, giống như khả năng biết đọc, biết viết vậy. Thế kỉ XXI đang chứng minh điều đó. Học về thống kê, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy các ứng dụng ngay trong các hoạt động của trường học và cuộc sống hàng ngày.” “Như mọi khoa học khác, Lượng Giác phát sinh từ nhu cầu của đời sống con người: sự phát triển của ngành hàng hải đòi hỏi phải biết xác định vị trí của tàu bè ngoài biển khơi theo mặt trời lúc ban ngày và theo vì sao lúc ban đêm, cuộc sống xã hội với các hoạt động sản xuất đòi hỏi đo đạc ruộng đất, thiết lập bản đồ, Và trong lich sử Toán học, người có công xây dựng lí thuyết về lượng giác là nhà toán học Lê- ô-na Ơ-le, người Thụy sĩ. Cuộc đời ông là một tấm gương cho cả nhân loại về sự say mê và cần cù trong công việc. Ông không từ chối bất kì việc gì dù là khó đến đâu. Suốt 15 năm cuối đời mình mặc dù bị mù cả hai mắt, ông vấn tiếp tục lao động sáng tạo, không ngừng cống hiến xuất sắc cho khoa học. Để ghi nhận công lao ông đã viết trên 800 công trình về toán học, thiên văn và Địa lí, tên của ông đã được đặt cho một miệng núi lửa ở phần trông thấy của Mặt trăng .” Phần Hình học 10, chương đầu tiên là một khái niệm hoàn toàn mới và có phần khó hiểu với học viên, tôi chọn cách giới thiệu tổng quát nhất những gì các em sẽ được học, sự liên kết với các môn khoa học khác và ứng dụng của Vec tơ: “ Ở cấp THCS, các em đã biết một số kiến thức về hình học phẳng. Chương trình hình học 10 nhằm bổ sung thêm và hoàn thiện một số kiến thức của bộ môn hình học. Trong chương đầu tiên, các em sẽ được tiếp cận với một khái niệm hoàn toàn mới, đó là vec tơ và các phép toán về vec tơ. Bằng công cụ vec tơ, các em sẽ tập làm quen với việc nghiên cứu hình học bằng một phương pháp khác, gọn gàng, có hiệu quả và mang tầm khái quát cao. Ngoài ra vec tơ còn được dùng để biểu diễn các đại lượng có hướng trong môn Vật lí như lực, vận tốc và gia tốc làm cho Toán học gắn với đời sống thực tế và sản xuất đồng thời phục vụ các môn học khác. Các khái niệm về vec tơ và các phép toán sẽ giúp các em tiếp cận với những khái niệm mới của toán học hiện đại, ví dụ như lần đầu tiên các em được thực hiện phép toán trên các đối tượng không phải là số nhưng lại có tính chất tương tự số. Các kiến thức về tọa độ trong chương này là cơ sở để đưa vào một phương pháp nghiên cứu mới đó là dùng đại số để nghiên cứu hình học. Học chương này các em phải hiểu được vec tơ là gì, thế nào là tổng, hiệu của hai vec tơ, tích của một vec tơ và một số. Những kiến thức này rất quan trọng vì chúng là cơ sở để học môn hình học của ba lớp 10, 11, 12. ” Với Chương II Hình học 10, đan xen việc giới thiệu nội dung chương, ứng dụng kiến thức trong thực tế là một câu chuyện vui về một nhà Toán học: “ Trong chương I, các em đã làm quen với các phép toán tổng, hiệu của hai vec tơ, tích của một vec tơ và một số. Tiếp nối chương II sẽ giới thiệu cho chúng ta thêm một phép toán nữa là tích vô hướng của hai vec tơ, tức là phép nhân vô hướng hai vec tơ với nhau, kết quả của phép nhân này là một số nên người ta gọi tích đó là tích vô hướng. Nội dung của chương trình bày các tính chất cơ bản của tích vô hướng và những ứng dụng của chúng, đặc biệt là những hệ thức quan trọng trong tam giác: định lí côsin, định lí sin, công thức đường trung tuyến, công thức tính diện tích tam giác,Và các em sẽ được vận dụng chúng để giải một số bài toán hình học và tìm thấy những ứng dụng của chúng trong thực tế, ví dụ như để đo chiều cao của một tòa tháp, đo khoảng cách giữa những địa điểm mà con người không thể tới được. Có một câu chuyện về một người thợ đo tài tình như thế này : Người Ai Cập được thế giới biết đến qua những kim tự tháp nổi tiếng, họ rất giỏi khi xây được những công trình vĩ đại mà chỉ dựa vào những công cụ rất thô sơ. Câu chuyện kể rằng nhận lời mời của Hoàng đế Ai Cập, Ta-let - nhà Toán học Hy Lạp cổ đại – đã lên đường sang đất nước của những kim tự tháp để đo chiều cao của kim tự tháp Kê-ôp. Tin đồn đã lan truyền khắp kinh thành, mọi người tập trung rất đông để được tận mắt chứng kiếnKhi mặt trời vừa hé rạng, thấy trên tay nhà Toán học chỉ có cái thước bình thường, một người to béo khiêu khích : - Người Ai Cập chúng ta tài giỏi nhất thế giới mà phải chịu bó tay không đo được, huống hồ người Hi Lạp nhỏ bé với cái thước ngắn kia làm sao mà đo nổi ngọn tháp cao ngất trời này chứ? Không phản ứng, nhà Toán học đề nghị người vừa nói giúp ông thực hiện công việc: - Phiền ngài vui lòng đứng dưới chân tháp để tôi đo chiều cao của ngài! Rồi tôi sẽ cho ngài biết chiều cao của tháp! Mặt trời mỗi lúc một lên cao và cứ qua một khoảng thời gian nhất định, Talet lại đo cái bóng của ông ta. Tiếp đó nhà Tóan học chuyển sang đo bóng của kim tự tháp đang đổ dài trên mặt cát. Sau một lúc tính toán, ông công bố kết quả: - Chiều cao của kim tự tháp Kê-ôp là 146 m! Rồi ông giải thích thêm: - Dựa vào tính toán khoa học, tôi để ngài và kim tự tháp cùng đứng trên một đường thẳng. Khi mặt trời chiếu một góc 450 thì độ dài của cái bóng và chiều cao của ngài bằng nhau. Lúc đó tôi chỉ cần đo cái bóng của kim tự tháp. Mọi người ồ lên tán thưởng cách làm thông minh và đầy thuyết phục của Ta-let. Kết thúc câu chuyện chúng ta thấy ngay từ thời xa xưa, nhân loại đã biết vận dụng tri thức để làm những gì mà tưởng như vượt qua sức người và bây giờ cũng vậy, các em sẽ thấy được nhiều ứng dụng của kiến thức toán học trong đời sống hàng ngày. ” Với chương cuối cùng của Hình học 10, tôi chọn cách nhấn mạnh về vai trò của phương pháp tọa độ trong mặt phẳng đối với bộ môn Hình học “ Phương pháp tọa độ trong mặt phẳng được trình bày dựa trên kiến thức về vec tơ và các phép tính về vec tơ, từ đó có thể giải quyết các bài toán hình học bằng việc tính toán thuần túy. Các em sẽ được làm quen với một phương pháp tư duy mới, tư duy hình học bằng những con số, tìm hiểu tính chất của đường thẳng, đường tròn, đường elip thông qua phương trình của chúng. Đó là một công cụ mới để suy luận và tư duy một cách chặt chẽ và chính xác, tránh được các hiểu lầm do trực giác mang tới. Cũng với phương pháp này các bài toán hình học cũng trở nên đơn giản hơn, ví dụ như bài toán chứng minh một đường thẳng là tiếp tuyến của một đường tròn mà các em từng làm ở lớp 9 tương đối khó với chúng ta khi một số bạn nhìn hình vẽ hoài mà cũng không tìm ra cách giải thì nay bằng phương pháp mới này các bạn chỉ cần tính toán trên những công thức và thậm chí không cần phải vẽ hình nữa.” Việc thực hiện gợi động cơ cho mỗi bài học thực sự đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư kĩ lưỡng cho giáo án mỗi khi lên lớp của mình, bản thân mỗi thầy cô phải thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn không chỉ phạm vi môn Toán mà còn các môn khoa học khác có liên quan, cập nhật những thông tin khoa học và biết linh hoạt áp dụng vào thực tế, có vậy mới truyền cảm hứng cho các em qua mỗi bài học. 3. Đánh giá kết quả giải pháp: Với những bài học có áp dụng hoạt động gợi động cơ cho các đối tượng mà tôi giảng dạy, tôi nhận thấy có sự thay đổi trong cách học và tiếp thu kiến thức. Các em chủ động hơn, hứng thú hơn so với trước đây, biết lắng nghe, biết đặt câu hỏi về những gì mình chưa hiểu và quan trọng biết mình học được gì, vận dụng ra sao trong cuộc sống. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Những gì mà tôi trình bày trên thực ra không phải là mới, mà chỉ là có sự tìm tòi, đầu tư cho một bài dạy cuốn hút được người học, quan tâm đến cảm nhận của học sinh, đến những gì mà các em cần tiếp thu được sau bài học đó. Tuy không nhiều nhưng cũng góp phần làm cho học sinh nhận biết được vẻ đẹp của toán học và yêu thích học môn toán. Sau khi thực nghiệm việc tăng cường hoạt động gợi động cơ cho mỗi bài học cho hai lớp tôi giảng dạy từ đầu năm cho tới cuối học kì II, với câu hỏi khảo sát tương tự , tôi thu được kết quả số lượng các học viên cho là môn Toán khó, không thích học, không thấy bộ môn này liên quan đến thực tế đời sống được thống kê như sau: LỚP SỐ LƯỢNG TỈ LỆ 10A3 09/35 25,71% 10A4 10/46 21,74% So với bảng thống kê ban đầu có thể thấy số lượng học viên thấy việc học bộ môn toán bớt nặng nhọc, cần thiết và thấy được ứng dụng của môn học này với thực tế tăng lên đáng kể: Lớp 10A3 tăng 60%. Lớp 10A4 tăng 67,39%. V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Với khả năng cũng như kinh nghiệm còn hạn chế, khi trình bày đề tài này tôi mong muốn sẽ được học hỏi nhiều hơn từ đồng nghiệp, từ các thầy cô có kinh nghiệm hơn và từ ban giám hiệu nhà trường để góp phần vào việc nâng cao trình độ chuyên môn và làm cho học sinh thích học môn toán. Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, kính mong các thầy cô góp ý để bài viết này hoàn chỉnh hơn nữa. Xin chân thành cảm ơn. VI. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Văn Hạo ( tổng chủ biên) – Đại số 10 ( Ban cơ bản) – NXBGD – 2010. 2. Trần Văn Hạo ( tổng chủ biên) – Sách giáo viên Hình học 10 – NXBGD – 2010. 3. Trần Văn Hạo ( tổng chủ biên) – Sách giáo viên Đại số 10 –NXBGD – 2010. 4. Trần Văn Hạo ( tổng chủ biên) – Đại số 10 ( Ban nâng cao) –NXBGD – 2010. 5. Trần Văn Hạo ( tổng chủ biên) – Hình học 10 ( Ban cơ bản) –NXBGD – 2010. 6. Trần Văn Hạo ( tổng chủ biên) – Hình học 10 ( Ban nâng cao) –NXBGD – 2010. 7. Nguyễn Bá Kim –Phương pháp dạy học môn Toán –NXB ĐHSP – 2003 . VII. PHỤ LỤC: Phiếu khảo sát thăm dò ý kiến học sinh Họ và tên học sinh: Lớp: CÓ KHÔNG Em có thực sự thích học môn Toán? Em có thấy sự cần thiết của môn học này với các môn học khác và em có vận dụng được những gì mình học trong thực tế. ( Đánh dấu X vào ô em chọn cho mỗi câu hỏi.) NGƯỜI THỰC HIỆN (Ký tên và ghi rõ họ tên) NGUYỄN THỊ HUYỀN SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI Đơn vị ..................................... ––––––––––– CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc –––––––––––––––––––––––– ................................, ngày tháng năm PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: ..................................... ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: .............................................................................................................. ........................................................................................................................................................... Họ và tên tác giả: ................................................................ Chức vụ: ............................................. Đơn vị: .............................................................................................................................................. Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... - Phương pháp giáo dục - Lĩnh vực khác: ........................................................ Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong Ngành 1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô dưới đây) - Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn - Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn - Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 5 ô dưới đây) - Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao - Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao - Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao - Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả - Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành Xếp loại chung: Xuất sắc Khá Đạt Không xếp loại Cá nhân viết sáng kiến kinh nghiệm cam kết và chịu trách nhiệm không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của mình. Tổ trưởng và Thủ trưởng đơn vị xác nhận đã kiểm tra và ghi nhận sáng kiến kinh nghiệm này đã được tổ chức thực hiện tại đơn vị, được Hội đồng chuyên môn trường xem xét, đánh giá; tác giả không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của chính tác giả. Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của tác giả và người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm. NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN XÁC NHẬN CỦA TỔ THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ BM04-NXĐGSKKN (Ký tên và ghi rõ họ tên) CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
File đính kèm:
- skkn_phat_huy_hoat_dong_goi_dong_co_trong_giang_day_mon_toan_lop_10_0643.pdf