Đề tài Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, mục đích của giáo dục là đào tạo những con người phát triển toàn diện mà cụ thể là đức và tài. Đến nay chúng ta đã có rất nhiều những thành công trong công tác giáo dục. Góp phần vào sự thành công ấy có giáo dục của bậc THCS nói riêng và ở các cấp học nói chung. Nói về giáo dục ở bậc THCS, bên cạnh những đóng góp không nhỏ cho nền giáo dục nước nhà và rất nhiều học sinh của chúng ta có đạo đức tốt, có năng lực và kết quả học tập cao nhưng bên cạnh đó trong nhà trường vẫn còn tồn tại những học sinh có kết quả giáo dục chưa cao, đặc biệt là về giáo dục đạo đức. Đó là những học sinh có thái độ – biểu hiện đạo đức yếu kém mà ta hay gọi là học sinh cá biệt.
Đối với học sinh cá biệt chúng ta bỏ ngoài ư? Mặc kệ ư? Không! Không thể được. Nếu chúng ta có biện pháp giáo dục phù hợp với đối tượng này thì tôi tin rằng công sức mà chúng ta bỏ ra là không hề lảng phí. Như chúng ta đã biết, những em học sinh cá biệt là những em thường hay có cá tính, hoặc có lí do đặc biệt. Nếu ta phát huy được cá tính tốt, hiểu rõ nguyên nhân và có biện pháp khắc phục hợp lí thì tất sẽ thành công, còn nếu chưa được những gì tốt đẹp nhất thì việc làm đó cũng giúp cho học sinh cá biệt chậm lại quá trình vi phạm để rồi dần thức tỉnh ra.
Chính vì thế mà đã có nhiều nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà sư phạm nghiên cứu, chỉ ra các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt. Kết quả ấy cũng đã được áp dụng rộng rãi và phong phú trên các trường học ở nước ta.
nh kiểm năm học trước 2011 - 2012 Tốt (%) Khỏ (%) Trung Bỡnh (%) Yếu (%) Kộm (%) 20 20 40 20 0 2.2 Tình hình nhà trường Như trên chúng ta đã biết, việc thay đổi cách sống, cách sinh hoạt của cộng đồng tất sẽ dẫn đến sự thay đổi của trẻ em ( trẻ thường lấy người lớn làm gương, các gương xấu dễ bị tiếp thu hơn). Học sinh THCS Ba Đỡnh cũng nằm trong tình trạng chung của học sinh THCS trên địa bàn của thị xã. Trong những năm qua, do có sự đi lại thuận lợi, cơ sở vật chất trường lớp được khang trang hơn, chất lượng và thành tích của nhà trường được nâng lên ( trong đề tài này tôi chưa nói đến thành tích của học sinh và nhà trường) nên có một số học sinh ở khác phường xin về học . Trong số các em chuyển về trường học có nhiều em chăm ngoan học giỏi, song vẫn có một số em thuộc dạng học sinh cá biệt. Những học sinh này kết hợp với số học sinh hư trong trường làm tăng thêm số lượng học sinh cá biệt, một số học sinh lớp 9C là điển hình. Mặt khác, phần lớn phụ huynh học sinh còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm giáo dục con em, sự quan tâm, quản lý con cái còn chưa đúng mức. Nhiều gia đình chưa thực sự phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục con cái - phó mặc cho nhà trường. Nhiều phụ huynh nhà trường cần găp thì không đến, có phụ huynh đến thì thái độ lại khó chịu. Nhiều học sinh bố mẹ không quản lý được như để cho con em đi chơi lêu lổng, nói dối ( ban đêm không học vẫn tụ tập để đi chơi ngoài đường từ đó nảy sinh nhiều vấn đề về đạo đức). Hiện nay nhà trường có 16 lớp học, mỗi khối có 4 lớp nhìn chung các em đều chăm ngoan, học giỏi , song rải ở các lớp vẫn có những học sinh cá biệt đạo đức yếu kém là do bố mẹ thiếu quan tâm hoặc biện pháp giáo dục thiếu tính hợp lý. Một số do mâu thuẫn cá nhân có tính chất phân biệt đẳng cấp giàu nghèo và bị một số thanh niên xấu rủ rê, cổ vũ khích lệ dẫn đến đánh nhau. Một số khác do động cơ học tập không cao dẫn đến thờ ơ với việc học tập. II. Một số biện pháp và kết quả giáo dục học sinh cá biệt A. Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt Việc giáo dục học sinh cá biệt cần có sự phối kết hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội, nhất định sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục. Hồ Chủ Tịch đã từng căn dặn: “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù có tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. Vì vậy, Đối với nhà trường. Trường học là cơ sở chính - chủ đạo trong quá trình giáo dục với ý nghĩa nó là nhà điêu khắc chính tạo nên tâm hồn con người. Trường học để lại dấu ấn không phai mờ trên bộ mặt văn hoá của tất cả những ai đã học tập ở đó. Trường học chân chính lấy làm tự hào là tất cả những người lớn tuổi đều hãnh diện tự coi mình là học trò của các em. Trường học là nơi hình thành và bảo vệ cái cốt lõi đạo đức của người công dân. Những mối quan hệ lẫn nhau được hình thành trong tập thể của trường học. Vì vậy để cho trường học giảm bớt tình trạng học sinh cá biệt thì nhà trường nên có những biện pháp như sau: Tăng cường những giờ giảng có hiệu quả và chất lượng về luân lí đạo đức, pháp luật cho học sinh. ở mỗi lớp, nhà trường chọn ra số học sinh cá biệt, tập trung lại và cho giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn về đạo đức, về pháp luật để bồi dưỡng. Những học sinh này cần được truyền thụ kiến thức đạo đức ( bài học làm người, các phẩm chất và bổn phận đạo đức của công dân ) và kiến thức pháp luật để các em biết và giác ngộ, sửa chữa dần dần những việc làm, hành vi không phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Vì vậy, trong trường học, cần có giáo viên dạy pháp luật nói riêng và dạy giáo dục công dân nói chung có trình độ và chuyên môn vững vàng để truyền đạt đến học sinh một cách có hiệu quả. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn cần có sự quan tâm chú ý đến học sinh lớp mình, đặc biệt là học sinh cá biệt. Giáo viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm trước nhà trường, trước cha mẹ học sinh về sự phát triển nhân cách của từng học sinh theo mục tiêu giáo dục. Do đó, đối với học sinh cá biệt, bản thân tôi đưa ra một số biện pháp sau đây: Thứ nhất: Biện pháp xây dựng lại niềm tin Bình thường, trẻ em vốn có niềm tin vào “thế giới” người lớn, hồn nhiên và yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em cũng như những người xung quanh. Vì những lí do xã hội và hoàn cảnh phức tạp của cá nhân mà niềm tin của các em bị phai nhạt và đổ vỡ, thậm chí các em có những tình cảm ngược lại: oán giận xã hội, căm ghét gia đình và những người xung quanh, mặc cảm về chính bản thân, về thân phận bất hạnh của mình. Vì vậy, nhà giáo dục như chúng tôi nên thực hiện theo các yêu cầu sau: Từ những phút đầu tiên tiếp xúc với trẻ, phải tạo cơ hội để các em có cái nhìn đúng đắn ( không bị khúc xạ, xuyên tạc, làm méo mó đi ) về thế giới khách quan, về các mối quan hệ giữa người với người. Từng bước, từng bước khôi phục lại, nâng dần lên, hiểu đúng các quy tắc xã hội và những tiêu chuẩn đạo đức nhân cách, những tiêu chuẩn hành vi, gợi lên lòng tin của các emg với mọi người, với cuc sống ( mà trước đó do bị cuộc sống vùi dập trong nỗi bất hạnh khiến chúng nhìn hoàn toàn ngược lại). Theo thời gian phải đồng thời gợi mở vạch ra cho các em thấy những khía cạnh sai lầm, những ngộ nhận trong cách nhìn người, nhìn việc, xem xét các mối quan hệ để cảm hoá và tạo điều kiện cho các em tự cảm hóa mình. Nên tổ chức các hoạt động ( lao động, văn nghệ, thể thao ). Để trẻ tiếp xúc và giao lưu với nhau, với cộng đồng ở dạng trong sáng, dần dà trẻ sẽ nhận ra cái đúng, phát hiện ra thái độ lệch lạc, cực đoan của mình để từ đó tự điều chỉnh. Có như vậy chúng mới có cơ sở để tin rằng: Người với người là bạn, nam nữ bình đẳng, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn là điều tất nhiên, là việc làm cần thiết và phải làm trong thực tế. Với ai cũng vậy, nhận thức được các qui tắc tối thiểu: ăn thì phải làm, nhận được sự giúp đỡ phải cảm ơnCó thể nói: được học kiến thức và được thử nghiệm trong thực tế niềm tin của trẻ được khôi phục dần dần và đó là cơ sở để ta phê phán cái sai, ủng hộ và làm theo cái đúng trong những lần sau: Quá trình xây dựng lại niềm tin cần vạch ra bức tranh tổng thể, vì cuộc sống buông thả vô nguyên tắc cuối cùng sẽ gặm nhấm, làm tiêu tan cuộc sống lành mạnh của mỗi người. Cần chú ý là khi khôi phục lại niềm tin phải hết sức tế nhị, không bao giờ tỏ ra nghi ngờ hoặc chế nhạo sự non nớt, sự sai lầm của trẻ, kể cả việc bác bỏ thẳng thừng thô bạo các quan niệm sai lầm của trẻ. Thế giới tâm hồn trẻ cực kỳ phong phú nhạy cảm, dù hế sức gần gủi với trẻ chắc chắn chúng vẫn còn nhiều điều bí ẩn, khó lòng thấu hiểu hết. Sự khéo léo ứng xử về sư phạm phải tinh thông, có như vậy trẻ mới tin ta và từ đó chúng mới tin vào bản thân chúng và vào cuộc sống nói chung. Thứ hai: Biện pháp khuyến khích và trừng phạt. 1.1 Trừng phạt. Trừng phạt phải được đối tượng nhận thức tiếp thu như là hình thức đặc biệt của yêu cầu chung đối với hành vi sai trái của các em. Trong nội dung trừng phạt đồng thời nên có các nội dung: - Phê phán, chỉ trích việc làm sai trái - Lời chỉ dẫn sửa chữa hoặc qui tụ hành vi để khắc phục sai phạm đó. - Cảnh báo, răn đe sự việc tái diễn để phòng ngừa về sau - Trừng phạt được áp dụng để sửa trị những lỗi lầm của trẻ sai phạm ở mức độ nặng nề ( như chúng đã xúc phạm thô bạo bạn bè, mọi người, luôn luôn bộc lộ tính hung tợn, tính chấp nhặt trả thù khiến cho trẻ khác sợ hãi) . Nhưng trừng phạt phải chặt chẽ, thích đáng, tránh tạo cơ hội để trẻ bộc lộ sự ranh mãnh đối phó theo kiểu đạo đức giả. Khi trừng phạt phải vạch rõ lý do chính đáng đảm bảo cho việc trừng phạt đạt hiệu quả mong đợi của mọi người, làm cho đối tượng chuyển biến thái độ hành vi. Thực hiện việc trừng phạt phải được dư luận của nhóm đồng tình ủng hộ. Phải nhạy bén linh hoạt thay đổi hình thức phạt khi cần thiết và cũng không nên trừng phạt một cách máy móc hình thức. Tối kị việc trừng phạt hàng loạt trẻ với một hình thức sáo mòn nào đó. Khi bản thân trẻ đã hiểu rõ tính nết và cung cách giáo dục của nhà giáo dục mà người đó lại không chịu cải tiến hình phạt, rễ dẫn đến thái độ khinh nhờn của trẻ, vì chúng cho rằng như vậy là tắc trách, là không khách quan. Vì vậy đối với mỗi đối tượng, phải sâu sát với chúng và cá biệt hoá cả cách thức trách phạt thì hiệu quả mới tốt. Ví dụ: có trẻ phải cương quyết, có trẻ phải dùng áp lực, dư luận tập thể; có trẻ phải tâm tình thuyết phục, thậm chí mời gia đình giáo dục. Việc thực hiện thực hiện trừng phạt không nên hấp tấp vội vã, tránh tình trạng để trẻ có lỗi chưa đủ thời gian tự xem xét đã phạt. Về tâm lý khi trẻ vừa rơi vào tâm lý xung đột, sự cuồng nhiệt chưa lắng lại, người phạm lỗi chưa có đủ thời giờ để suy ngẫm, phân tích cảm nhận rõ ràng, nếu ta phạt ngay dễ dẫn đến sự phân tán trong dư luận và bản thân trẻ cũng chưa có đủ điều kiện để tiếp thu. Vậy, việc phạt trẻ phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, đúng mức sẽ có tính giáo dục cao. 1.2. Khuyến khích – khen thưởng Có nhiều người cho rằng không nên áp dụng biện pháp này đối với học sinh cá biệt. Tuy vậy, trong giáo dục sự nâng đỡ, khuyến khích cái tốt, cái thiện dù là nhỏ đều rất cần cho sự khôi phục lại niềm tin của người lầm lỗi. Nếu trừng phạt thực hiện 3 chức năng ( Giúp trẻ ý thức đầy đủ về khuyết điểm, từ đó thừa nhận không thể dung thứ được những sai phạm như vậy, và từ việc ý thức như vậy sẽ tìm cách khắc phục sai phạm, khuyết điểm và tự điều chỉnh hành vi của mình) thì khen thưởng, khuyến khích cũng có ba chức năng như vậy. Nhìn chung việc kết hợp cả khuyến khích và trừng phạt được kết hợp một cách hệ thống liên tục sẽ giúp trẻ hiểu rõ, phân biệt được cái tốt cái xấu, cái gì được xã hội chấp nhận, cái gì không thể và không được làm. Từ đó khuyến khích trẻ làm theo cái tốt loại dần những sai trái. Đến một mức phát triển cao chúng sẽ hình thành được năng lực tự nhận xét, phê phán, chỉ trích mọi hành vi sai trái của mình. Đặc biệt đối với trẻ thiếu thốn tình cảm gia đình thì sự yêu thương thông cảm khiến chúng có sức cảm hoá rất mạnh. Tuy nhiên khuyến khích phải mang tính cá biệt hoá sao cho phù hợp với đối tượng. Có trẻ cần tuyên dương công khai, có trẻ cần trao tặng phẩm, có trẻ chỉ cần ánh mắt thông cảm, động viên là đủ. Việc đề xuất và tổ chức thực hiện khuyến khích phải được người có uy tín, được trẻ tin tưởng, tránh trường hợp người có va chạm với trẻ lại làm việc khen chê đó. Khen thưởng đối với loại trẻ này phải nhằm vào sự cố gắng thực sự của trẻ. Khuyến khích là nhằm khơi gợi những nhân tố tích cực trong trẻ, giúp trẻ hiểu rõ các phảm chất, các năng lực, tính cách của mình. Điều đó làm cho trẻ tin tưởng ở bản thân mình, hình thành ở trẻ tư tưởng phấn đấu trở thành người tốt hơn. Cần khuyến khích cùng với giao việc cụ thể, tổ chức các hoạt động tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ tiềm năng, thử thách tự sửa chữa trong thực tế. Tóm lại, việc khuyến khích trong giáo dục học sinh các biệt cũng là một trong những biện pháp quan trọng, tạo cơ hội cho trẻ tự sửa chữa, vươn lên và trở thành người học sinh tốt hơn. 2.Đối với gia đình. Nhà trường cần kết hợp với gia đình để giáo dục học sinh các biệt. Người giáo viên chủ nhiệm có học sinh các biệt cần phải kết hợp với gia đình để trao đổi và tư vấn các biện pháp giáo dục trong gia đình . Phần lớn các gia đình đặc biệt các gia đình ở nông thôn ( địa bàn phường Ba Đỡnh) trình độ, biện pháp giáo dục còn hạn chế, do vậy cần có sự hỗ trợ, tư vấn, kết hợp của giáo viên về biện pháp giáo dục. Trong phạm vi gia đình, những người làm cha làm mẹ dù có bận như thế nào thì mỗi ngày nên dành một thời gian nhất định để quan tâm đến trẻ. Cha mẹ phải biết phòng ngừa các hành vi xấu của con bằng các biện pháp giáo dục cẩn thận và đặc biệt khi trẻ có các hành vi hư hỏng thì phải phương pháp giáo dục một cách đúng đắn . Khi con cái đã mắc các sai lầm khuyết điểm thì các bậc cha mẹ có thể thực hiện theo những điều sau đây: + Tránh vội vàng qui kết cho con theo kiểu áp đặt, chụp mũ ( lười, ngang bướng, hư hỏng, đồ bỏ đi, vô dụng, đồ ăn cắp, ) mà phải tự đặt ra câu hỏi đâu: “ Vì đâu có thái độ, hành vi sai trái? ” và tìm căn nguyên để khắc phục. + Khi giáo dục trẻ cần có thái độ bình tĩnh, tránh tức giận, bực bội cá nhân. Nên có lời khuyên giải một cách chân tình thể hiện tình thương và trách nhiệm. + Nên tìm mặt tích cực để tìm cách khuyến khích, động viên và khuyến khích mặt tích cực của trẻ. + Tránh tình trạng bênh vực hành vi xấu của trẻ, tô vẽ nên “ bức tranh vô tội” của trẻ hoặc là đánh giá một cách bi quan không thể giáo dục. + Đứng trước hành vi sai trái của trẻ thì tránh đối xử một cách thô bạo với trẻ (hắt hủi, đánh đập). Vì như vậy sẽ đẩy trẻ lún sâu vào những sai phạm, có những tiêu cực, khó lường, gây nên những vết thương sâu sắc trong tâm hồn trẻ. + Đối với những đứa trẻ trái tính trái nết, do dối loạn tâm lí thì phải quan tâm xem xét các mặt sinh hoạt trong gia đình và bản thân trẻ, phải chăm sóc chữa trị chúng theo các biện pháp y học. Với các biện pháp cơ bản như trên, mong các bậc cha mẹ lưu tâm và tìm thêm biện pháp khác phù hợp với đặc điểm con trẻ để giáo dục chúng phát triển tốt về tư cách, giỏi về văn hoá Đối với các tổ chức xã hội Nhà trường cần có nội dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường vào các tổ chức xã hội ở địa phương như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi nhằm thống nhất, định hướng, tác động đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Các cơ quan truyền thông và báo chí xuất bản phim ảnh nên tăng cường những phim tốt và những chương trình, ấn phẩm tốt nhằm giáo dục hướng trẻ vị thành niên. Ngăn chặn những sản phẩm văn hoá có tính đầu độc. Chương trình truyền thanh và truyền hình nên mở rộng, tăng cường các tiết mục thông tin giáo dục đại chúng, trong đó có chương trình hướng dẫn về sức khoẻ, y tế, cộng đồnggiải trí lành mạnh. Mặt khác, cần tăng cường các hoạt động nghiệp vụ về pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện, điều tra, xử lí đối với trẻ em vị thành niên phạp tội. Cảnh sát khu vực, cảnh sát phụ trách xã, công an xã cần chú ý đến trẻ vị thành niên để theo dõi, ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của trẻ. Nhà trường phối hợp với địa phương tổ chức cho học sinh tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động văn hoá, xã hội như: xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, gia đình văn hoá mới, dọn dẹp đường làng ngõ xóm.Nhằm góp phần cải tạo môi trường gia đình và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. B. Kết quả đạt được được trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt Với những biện pháp nêu trên, trong quá trình giảng dạy ở nhà trường THCS, tôi đã mạnh dạn áp dụng để giáo dục học sinh cá biệt ở lớp mình chủ nhiệm và đồng giáo dục học sinh trong trường thì kết quả đạt được rất khả quan. Em Nguyễn Thanh Phong, ban đầu tôi nhận lớp em có thái độ vô lễ, nói năng thiếu văn hóa và “bất cần”, thường lôi kéo bạn bè làm theo ý của mình. Trước những hành vi đó tôi cũng luôn nhắc nhở giáo dục em trước lớp song không có kết quả gì. Suy nghĩ để tìm ra giải pháp, tôi đã gặp riêng tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, lúc đó tôi biết được Phong có hoàn cảnh thật đáng thương: cha thì nghiện ma túy, mẹ thì lao động tự do, em ít được sự quan tâm và yêu thương của gia đình. Có lẽ vì thế em chán trường, không muốn học. Phong tâm sự: Em đến trường cốt để hòa đồng với bạn bè song nhiều bạn thường chế giễu và mỉa mai “con của thằng nghiện”, những lời lăng nhục của bạn bè càng khiến em cảm thấy nhục nhã nên em phải thể hiện mình trước mọi người để bạn bè không làm những điều đó, mong cô hiểu cho em. Nghe Phong tâm sự tôi cảm động và xót xa phân tích cho em hiểu được những điều em cần sửa chữa và phải làm gì cho đúng đạo lí. Phong đã hiểu và xin lỗi, hứa với tôi sẽ tiến bộ. Từ lần gặp đó cho đến hôm nay Phong đã có thay đổi và ý thức học tập tốt hơn. Em Hà Thị Thủy, HS có thể xem là “đại ca” của tốp nữ. Đầu năm em thường bỏ học đi chơi với bạn trai, trang phục đến trường thường bắt chước theo kiểu ca sĩ, không phù hợp với tuổi HS. Khi giáo viên nhắc nhở thì em có những hành vi thiếu văn hóa. Lúc đó tôi rất buồn vì trong lớp cũng có một vài em đạo đức kém như vậy. Lo lắng suy nghĩ để tìm ra một giải pháp giáo dục các em như thế nào? Tôi gặp riêng em tâm sự và hiểu được cái suy nghĩ của Thủy đó là ưa nhẹ nhàng, tế nhị kín đáo bởi vì tuổi nhỏ em không được sự chăm sóc yêu thương của mẹ, cho nên em khao khát tình mẹ. Hiểu được tâm sự của em tôi đã tìm ra được phương pháp giáo dục em Thủy theo một chiều hướng tốt. Một lần em đã xin được gặp tôi nói: cô ơi giờ em mới thấm thía lời cô nói. Em cảm ơn cô nhiều. Em Nguyễn Văn Thắng sinh ra trong một gia đỡnh rất hạnh phỳc, nhưng em đó bị sự cỏm dỗ của bạn bố, thường xuyên bỏ học đi chơi điện tử. Tôi đó đến gia đỡnh nhiều lần thỡ được biết mẹ rất nuông chiều, con thích gỡ được nấy. Tôi đó xin phộp gia đỡnh để phân tích cái đúng cái sai để gia đỡnh và em hiểu được cần phải học tập như thế nào là tốt nhất, không nên chiều chuộng con cái. Ban đầu gia đỡnh khụng hợp tỏc, rồi thời gian người mẹ đó hiểu được nuông chiều con cái là tác hại lớn. Từ đó cả hai phía kết hợp với nhau để giáo dục em và kết quả học kỡ II em đó đi học đều đặn, ghi bài đầy đủ, chăm chỉ học tập hơn. Trong lớp tôi còn rất nhiều học sinh cá biệt. Tuy thời gian chủ nhiệm các em có một năm chưa đủ để hiểu hết được tâm tư tình cảm của các em. Song có một điều tôi nhận ra rằng: người giáo viên không chỉ truyền thụ kiến thức cho các em mà còn phải rèn luyện đạo đức, mình phải thực sự là người mẹ thứ hai, các em như những đứa con yêu đấu của mình. Khi làm công tác chủ nhiệm, thực sự tìm hiểu hoan cảnh sống của học sinh để cảm thông chia sẻ với những em có số phận bất hanh, phải gần gũi yêu thương và hiểu được tính cách của từng em trong lớp để có một phương pháp giáo dục rèn luyện đạo đức cho học sinh một cách có hiệu quả. Điều quan trọng giáo viên phải có tõm huyết với nghề nghiệp, yờu thương học sinh. Đặc biệt giáo viên chủ nhiểm phải có thời gian tỡm hiểu tớnh cỏch và hoàn cảnh từng em trong lớp, có thể cảm nhận được các em suy nghĩ gỡ để có phương pháp giáo dục đúng đắn. Đối với những HS chậm tiến bộ GV kiờn trỡ từng bước, có cái tâm của người Mẹ. Với một phương pháp giáo dục đa dạng và linh hoạt, tôi tin rằng sẽ đạt hiệu quả cao trong rèn luyện đạo đức cho học sinh. Chất lượng hạnh kiểm cuối năm học 2012 - 2013 Tốt (%) Khỏ (%) Trung Bỡnh (%) Yếu (%) Kộm (%) 89 11 0 0 0 C. KẾT LUẬN Thực trạng học sinh cá biệt ở trường THCS hiện nay đang trở thành vấn đề nhức nhối cho gia đình, xã hội, đặc biệt là cho người làm công tác giáo dục. Số học sinh cá biệt hầu như trường nào cũng có, nó tồn tại ở nhiều dạng và nhiều hình thức khác nhau. Để khắc phục tình trạng đó, tôi đã mạnh dạn đưa ra những nguyên nhân, biện pháp khác phục và đã đạt được kết quả trong quá trình thực hiện. Vậy các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trẻ hư đó là: do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, do ảnh hưởng từ phía gia đình, do nhà trường và do tác động từ phía xã hội. Cùng với mỗi nguyên nhân đó là các biện pháp khắc phục trong nhà trường, gia đình và xã hội. Về mặt nghiệp vụ, đề tài này giúp tôi có kĩ năng và thao tác của người tập làm công tác nghiên cứu. Đồng thời là giáo viên dạy Ngữ văn nó còn giúp tôi trau dồi kiến thức, nâng cao tay nghề để giảng dạy có hiệu quả tốt nhất. Trong khuôn khổ của một đề tài nghiên cứu, tôi mong đồng nghiệp xem đây như một ý kiến nhỏ góp tiếng nói chung trong việc giáo dục số học sinh cá biệt. Đề tài như một tài liệu tham khảo để bạn đọc, các bậc cha mẹ, nhà trường và xã hội có thể lựa chọn giáo dục cho con em mình. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tôi sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy rất mong sự đóng góp ý kiến của đông đảo bạn đọc, của các đồng nghiệp để bài viết sau tốt hơn, hoàn thiện hơn. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị (Đã ký) Hoàng Mạnh Hùng Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này do tôi nghiên cứu và thực hiện. Bỉm Sơn, Tháng 3 năm 2013 Người viết Trần Thị Nga
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_dao_duc_cho_hoc_sinh_ca_biet_o_truong_thcs_5198.doc