Chuyên đề Tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, là con đường cung cấp tri thức lịch sử cho học sinh

Cơ sở lí luận:

 Căn cứ vào mục tiêu, chương trinh sách giáo khoa và phương pháp dạy môn Lịch sử trung học cơ sở, căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh bậc THCS, nhằm đáp ứng được xu thế phát triển xã hội. Vậy làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh bậc THCS?

 Đối với môn Lịch sử các sự kiện, nhân vật diễn ra trong quá khứ, lại rất phức tạp, đòi hỏi học sinh phải tổng hợp các kĩ năng. Theo kiểm tra thực tế phần lớn học sinh ngại học môn Lịch sử, đặc biệt với học sinh yếu kém lại càng ngại hơn, Lịch sử là liên quan đến sự kiện, nhân vật, ngày tháng năm, những khái niệm trừu tượng mà học sinh chưa tiếp xúc do đó không thể thấy được giá trị to lớn của việc học tập lịch sử. Học lịch sử là học những gì diễn ra trong quá khứ từ đó rút kinh nghiệm trong cuộc sống và định hướng cho tương lai.

2. Cơ sở thực tiễn:

 Để học sinh hiểu được lịch sử và yêu thích bộ môn, giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp tạo biểu tượng trong dạy học là hình thức khơi tính tò mò khám phá của học sinh. Học sinh tự biết đánh giá, nhận xét sự kiện nhân vật, hiện tượng lịch sử, biết liên hệ các sự kiện nhân vật, hiện tượng lịch sử với cuộc sống hiện tại của xã hội của địa phương từ đó hình thành khái niệm thì học sinh sẽ nhớ lâu và từng bước yêu thích. Biện pháp thực hiện ở đây không phải một ngày, hai ngày, một tuần hay một tháng mà là cả một quá trình dài, đòi hỏi giữa thầy và trò phải kiên trì. không phải việc làm của một người mà thành công được, đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều người, nhiều tổ chức đoàn thể trong nhà trường, hội cha mẹ học sinh cùng phối hợp đồng bộ mới có kết quả được.

 

doc11 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 04/05/2023 | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, là con đường cung cấp tri thức lịch sử cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 được xem như quá trình phát triển tư duy, từ việc nắm kiến thức chưa đầy đủ, chưa hệ thống đến nắm kiến thức đầy đủ hơn sâu sắc hơn. Những thiếu sót khá tiêu biểu mà học sinh thường mắc phải khi nắm các khái niệm lịch sử nhầm lẫn giữa “khái niệm” với “sự kiện” cụ thể, với “thuật ngữ” đồng nhất với việc hình thành khái niệm với “định nghĩa” chung chung; không nắm được các đặc trưng (dấu hiệu) trong nội hàm khái niệm; không phân biệt được đặc trưng chủ yếu và thứ yếu, cơ bản và không cơ bản. Vì vậy trên cơ sở biểu tượng có hình ảnh, chính xác giáo viên hướng dẫn học sinh hình thành khái niệm và điều trước tiên là nắm được các đặc trưng cơ bản trong nội hàm khái niệm, mà không tách biệt những nét riêng của các khái niệm, cần phân loại khái niệm. 
Trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, chúng ta thường gặp nhiều loạt khái niệm; việc đồng nhất khái niệm dẫn tới hậu quả không nắm được nội dung, tính chất, vai trò, ý nghĩa của các loại khái niệm. Có cách phân loại khái niệm theo nội dung mà khái niệm ấy phản ánh; Khái niệm về kinh tế, chính trị, về văn hóa, về đấu tranh giai cấp... Có cách phân loại theo mức độ khái quát của nội dung khái niệm; khái niệm sơ đẳng (gần với biểu tượng), khái niệm lịch sử trìu tượng tương đối ít phức tạp, khái niệm lịch sử mang tính trìu tương cao, những khái niệm chung. Chúng ta quan niệm rằng: Khái niệm lịch sử là sự phản ánh được khái quát hóa của quá trình lịch sử, nó phản ánh những mối liên hệ khách quan của hiện tượng này và của quy luật lịch sử.
 Khái niệm lịch sử bao giờ cũng ở mức độ trìu tượng khá cao, vì nó không chỉ phản ảnh một sự kiện riêng lẽ hay một nhóm sự kiện mà còn phản ánh những hiện tượng phức tạp đa dạng về mặt kinh tế, xã hội, chính trị...(Cách mạng tư sản, Cách mạng vô sản, Cách mạng công nghiệp). Những quan hệ của con người với con người, của con người với thiên nhiên, của con người trong xã hội (lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp). Cũng như mọi khái niệm khoa học, những khái niệm dùng trong dạy, học lịch sử (khái niệm lịch sử) phức tạp và đơn giản- phản ánh một quá trình lịch sử hay một sự kiện. Khái niệm chung của triết học và các môn khoa học có liên quan đến lịch sử đều có nội hàm và ngoại diên của nó. Nội hàm của khái niệm là tổng hợp những nét chung, những đặc trưng của sự kiện lịch sử được phản ánh trong khái niệm. Còn ngoại diên của khái niệm tập hợp những sự kiện lịch sử mà nội hàm là đặc trưng của nó được phản ánh một khái niệm chung. Ví như khái niệm “Cách mạng tư sản” mà học sinh thường gặp trong nhiều bài lịch sử, nhất là khóa trình lịch sử Cận đại, hiện đại có nội hàm là những nét chung bản chất, những đặc trưng riêng của cuộc cách mạng (do giai cấp tư sản hay các lực lượng có xu hướng tư sản lãnh đạo) xóa bỏ hay hạn chế ở mức độ khác nhau sự thống trị của giai cấp phong kiến, thay thế sự bóc lột tư bản cho sự bóc lột phong kiến, đặt cơ sở và tạo điều kiện cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Còn ngoại diên của khái niệm này là những cuộc cách mạng tư sản diễn ra với nhiều hình thức khác nhau (cuộc cách mạng Hà Lan thế kỉ XVI, Cuộc cách mạng Anh thế kỉ XVII, chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ, việc thống nhất nước Đức, Italia thế kỉ XIX, cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản...).
Sự phân loại khái niệm lịch sử và nhận thức về nội hàm, ngoại diên của nó là điều quan trọng trong việc hình thành khái niệm; khâu quan trọng bậc nhất của dạy, học lịch sử. Đó là điều kiện cơ bản để hiểu sâu một sự kiện, phân biệt một sự kiện khác nhau về nguyên tắc giữa các sự kiện có nội dung và bản chất khác nhau (phân biệt “cách mạng tư sản” với “cách mạng vô sản”, “cách mạng” với “đảo chính”, “cải lương”.
2.2. Con đường hình thành khái niệm lịch sử:
Các sách Phương pháp dạy, học Lịch sử đã viết khá nhiều, khá kĩ và sâu. Song vấn đề này chỉ dừng lại ở nhận thức lý luận mà chưa thể hiện trong thực tiễn giảng dạy. Hiện nay không ít giáo viên lịch sử không hề quan tâm đến đến việc hình thành khái niệm mà chỉ lo trình bày các sự kiện để học sinh ghi nhớ chưa nâng đến mức nhận thức lịch sử. Như vậy là chưa đạt yêu cầu của việc học tập lịch sử. Bởi vì, nắm kiến thức khoa học có nghĩa là trước hết phải nắm vững các khái niệm khoa học. Do đó, cần nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của việc hình thành khái niệm và con đường sư phạm, có hiệu quả cao nhất về công việc này.
Thứ nhất: trong quá trình dạy, học lịch sử ở trường phổ thông, học sinh không nắm một khái niệm, mà một hệ thống khái niệm gồm những khái niệm quan hệ với nhau và có một khái niệm trung tâm. Ví như khi học về lịch sử thế giới cổ đại với sự ra đời của giai cấp và nhà nước, học sinh cần nắm hệ thống khái niệm “kinh tế - giai cấp – nhà nước”. Trong khái niệm “giai cấp” giữ vị trí trung tâm.
Thứ hai: Việc hình thành khái niệm phải tiến hành trên cơ sở việc tạo biểu tượng và bắt đầu bằng công việc nêu rõ nội dung những đặc trưng cơ bản của khái niệm. Đây là công việc đầu tiên song rất quan trọng vì nó giúp học sinh nắm được bản chất của sự kiện. Ví dụ: Đối với khái niệm “Nô lệ”, “Nông nô”, “nông dân”, “công nhân”. học sinh không nên dừng lại ở hiểu biết rằng đó là những người lao động, bị áp bức. Trên cơ sở tài liệu lịch sử cụ thể giáo viên hướng dẫn các em nêu được những đặc trưng cơ bản, phân biệt các tầng lớp giai cấp này. Như vậy các em mới phân biệt được nhiệm vụ lịch sử, yêu cầu của thời đại đối với những người này. Khi nêu đặc trưng của những khái niệm này, chúng ta sẽ giúp học sinh nắm được những cái chung, cái riêng và đặc thù trong mỗi khái niệm. Như trong các khái niệm trên có một điểm chung - họ là người lao động, bị áp bức, song mỗi loại có một bộ phận và vị trí khác nhau trong lịch sử (“nô lệ” ở thời kì chiếm hửu nô lệ, hoàn toàn phụ thuộc vào “chủ nô”, “công nhân” ở thời kì tư bản chủ nghĩa được “tự do” bán sức lao động, bị bóc lột bằng “giá trị thặng dư”.
Thứ ba: Khái niệm được diễn bằng một thuật ngữ. Để nắm được khái niệm cần phải hiểu thuật ngữ diễn đạt nội dung nó. Có khi thuật ngữ diễn đạt được những đặc trưng của khái niệm, nếu sự vật được phản ánh là đơn nhất, khái niệm “trống đồng” nói lên những đặc trưng của trống đồng. Có khi một thuật ngữ diễn đạt một khái niệm có nội dung phức tạp, qua các thời kì lịch sử khác nhau thì việc nắm nội dung của nó cũng không đơn giản, như “Nhà nước cổ đại”, chỉ một bộ máy, tổ chức chính trị ở thời kì chiếm hữu nô lệ. Sau khi học phần lịch sử thế giới cổ đại học sinh mới hiểu được sâu sắc khái niệm này, nó còn được nhiều lần để so sánh với các khái niệm “Nhà nước phong kiến”, “Nhà nước tư sản”. “Nhà nước vô sản”. 
Thứ tư: Học sinh nắm được khái niệm dễ dàng hơn nếu các em có những cơ sở trực quan. Vì sử dụng đồ dùng trực quan là điều kiện rất quan trọng. Khi học lịch sử thế giới trung đại và cận đại, học sinh gặp khái niệm” công trường thủ công”. Giáo viên có thể đưa cho các em xem bức tranh hay minh họa về cảnh lao động trong một công trường thủ công và các em sẽ nhận thức rằng, đặc trưng của công trường thủ công là có phân công lao động, song lao động bằng tay vẫn giữ vai trò quan trọng. Khi hình thành khái niệm “cách mạng công nghiệp”, giáo viên cần hình thành cho học sinh hai hệ quả (hai mặt) của cách mạng công nghiệp: sự phát minh máy móc, thúc đẩy kĩ thuật, sản xuất phát triển và việc đưa xã hội thành hai giai cấp cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa. Để đạt được yêu cầu này, giáo viên sử dụng sơ đồ sau đây:
 Tư sản 
 Vô sản
Khai thác than, luyện kim
Máy móc
Động cơ
Về mặt xã hội
Về mặt kĩ thuật
Cách mạng công nghiệp
Trên cơ sở sử dụng tranh, ảnh, sơ đồ... để học sinh nắm được nội dung các đặc trưng của khái niệm, giáo viên hướng dẫn học sinh làm bảng sơ kết những vấn đề được trình bày trong các sơ đồ trực quan. Như khái niệm “Công trường thủ công” nêu trên, giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng tổng kết như sau:
Vấn đề được đặt ra
Đặc trưng của mỗi cơ sở sản xuất
Xưởng thợ thủ công
Công trường thủ công
1. So sánh xưởng thợ và công trường thủ công..
- Xưởng thợ chỉ có quy mô nhỏ.
Quy mô lớn, có khi gồm 3-4 cơ sở sản xuất.
2. Việc lao động và quản lý sản xuất.
- Người chủ vừa trực tiếp lao động sản xuất vừa quản lý sản xuất.
- Người chủ không lao động mà chỉ giám sát công việc của người khác làm thuê.
3. Phương thức sản xuất
- Lao động bằng tay.
- Lao động bằng tay là chủ yếu
4. Quan hệ trong lao động sản xuất.
- Những người thợ (thợ cả, thợ phụ) lao động, người học việc...
- Công việc sản xuất được chia cho từng nhóm người; chuyên môn -> phân công lao động.
5. Ai lao động?
Chủ và tất cả những người thợ thủ công.
Chỉ có người làm thuê lao động.
6. Tên gọi các cơ sở sản xuất
Xưởng thủ công thời Trung đại
Công trường thủ công.
Việc hình thành khái niệm như vậy phải tiến hành trên cơ sở tích lũy một số kiến thức lịch sử cần thiết, nhất là đối với những khái niệm chung, thường gặp trong khóa trình như khái niệm:”Cách mạng”, “Văn hóa”, “Tôn giáo”, “Chủ nghĩa tư bản”, “Chủ nghĩa đế quốc”...
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc học tập lịch sử thế giới cổ đại
Khái niệm “Xã hội nguyên thủy”, “thị tộc”, “bộ lạc”...
Trung đại “Lãnh địa”, “Thành thị trung đại “, “Lãnh địa phong kiến”, “Công xã nông thôn”, “Nông nô”, :Nô tỳ” “Nông dân lĩnh canh”, “Nông dân công xã”... 
Cận đại là hình thành khái niệm “Chủ nghĩa tư bản”, 
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc học tập khóa trình lịch sử thế giới cận đại là hình thành khái niệm về chủ nghĩa tư bản. Bởi vì: Có nắm được khái niệm này mới hiểu được thế giới thời kì cận đại, cả thời kì tiếp theo của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc từ nữa sau thế kỉ XIX.
Trước hết khái niệm về phương thức sản xuất (sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) ở một mức độ nhất định, học sinh đã nắm được khi học lịch sử cổ đại, nhất là việc học về công trường thủ công, về sự bóc lột của chủ công trường đối với người lao động làm thuê (Chưa phải là tư sản và vô sản).
Trong các bài về cách mạng Hà Lan, thế kỉ XVI, Cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII, Cách mạng tư sản Pháp thế kỉ XVIII, tính chất tư bản chủ nghĩa của thủ công được trình bày đầy đủ, chi tiết và học sinh đã dần dần thấy rõ tính hơn hẳn của sản xuất tư bản chủ nghĩa so với sản xuất phong kiến và mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới tư bản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời. Những tài liệu, sự kiện về chủ nghĩa tư bản xâm nhập vào nông thôn Anh những thập kỉ đầu thế kỉ XVII làm cho học sinh hiểu rõ nguyên nhân và tiền đề cách mạng tư sản Anh. Các cuộc cách mạng bùng nổ tiếp theo ở Mỹ, Pháp, Đức, Italia, Nhật...dưới nhiều hình thức khác nhau càng giúp học sinh đi sâu hơn vào nguyên nhân bùng nổ cuộc cách mạng này.
Khái niệm chủ nghĩa tư bản tiếp tục được mở rộng nội dung của nó khi học sinh tìm hiểu về xã hội, chính trị, sự phát triển của các nước sau khi cách mạng tư sản thành lập, chế độ tư bản được xác lập, thay cho sự thống trị của phong kiến. Ở đây giáo viên miêu tả và phân loại phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được thực hiện trên cơ sở lao động làm thuê. Từ đó, các em hiểu rõ sự xuất hiện hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản. Nhắc lại những kiến thức đã học, giáo viên giúp học sinh phân biệt trình trạng và vị trí của nô lệ, nông nô, công nhân trong lịch sử.
Khái niệm chủ nghĩa tư bản được khai thác ở khía cạnh về giai cấp tư sản thống trị giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác, để học sinh thấy rõ mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản và nhân dân lao động ngày càng sâu sắc, dẫn tới cuộc đấu tranh mạnh mẽ, gay gắt. Sự phát triển tất yếu của lịch sử mà cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản là động lực dẫn tới thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kết quả là chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thắng lợi cũng như sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy: Sự hình thành khái niệm Chủ nghĩa tư bản tiến hành trong một quá trình học tập khá dài, trải qua các khóa trình lịch sử cận đại, hiện đại thế giới và Việt Nam trên cơ sở các tài liệu sự kiện lịch sử phong phú và sự khái quát lí luận được nâng cao dần.
Cuối cùng, sự hình thành khái niệm phải dẫn tới kết quả là vận dụng những khái niệm đã học để tiếp thụ những kiến thức mới vào đời sống. Khi học cách mạng tư sản học sinh sẽ có cơ sở lí luận để đánh giá, nhận định những sự kiện như cuộc cách mạng tư sản Pháp thế kỉ XVIII. Cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh tại Bắc Mĩ. Hay những sự kiện xẩy ra ở thời hiện đại. Nắm vững các khái niệm “Chiến tranh chính nghĩa”, “Chiến tranh phi nghĩa” học sinh mới nhận ra các cuộc chiến tranh trong lịch sử, cũng như những cuộc chiến tranh trên thế giới đang diễn ra ngày nay. Do có nhận thức đúng mà học sinh có thái độ đúng và hành động đúng.
3. Việc nêu quy luật và bài học lịch sử trong quá trình dạy, học lịch sử:
Trên cơ sở tạo biểu tượng để hình thành khái niệm, học sinh đã có sự khái quát lí luận song chưa phải đã dừng lại ở đấy mà phải tiến đến nắm quy luật và rút ra bài học lịch sử. Như đã trình bày nghiên cứu khoa học cũng như học tập Lịch sử cũng đạt đến trình độ nắm quy luật (tùy theo yêu cầu và trình độ) và ý nghĩa thực tiễn của việc học Lịch sử là biết vận dụng những bài học của quá khứ trong cuộc sống hiện tại. Công việc này cũng là một bộ phận quan trọng của việc phát triển tư duy và năng lực thực hành của học sinh.
Con đường và những biện pháp sư phạm để rút ra quy luật và bài học Lịch sử trong dạy, học Lịch sử rất đa dạng song không rơi vào công thức, giáo điều sẽ làm giảm tác dụng của việc giáo dưỡng, giáo dục. Trên cơ sở những sự kiện lịch sử cụ thể, những biểu tượng và khái niệm đã thu nhận được giáo viên hướng dẫn học sinh thấy được bản chất, những mối liên hệ cơ bản thường lặp lại giữa các sự kiện và rút ra quy luật (Tùy trình độ của học sinh các lớp, tính chất quy luật của nó mà có thể nêu lên quy luật hoặc chỉ cho các em những vấn đề cơ bản). Ví dụ qua nhiều bài học về hình thành các nước trước khi nổ ra cuộc cách mạng tư sản giáo viên cho học sinh thấy được mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời là nguyên nhân dẫn đến cuộc cách mạng. Nội dung của vấn đề ngày một thể hiện cụ thể và sâu sắc qua các bài học và cuối cùng có thể nêu tổng quát quy luật về tính tất yếu giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. (quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất chất và trình độ lực lượng sản xuất). Tùy trình độ và yêu cầu học sinh mà có thể nêu quy luật này, song nội dung cơ bản của nó phải được thể hiện và quán triệt một cách thích hợp trong nội dung các bài học lịch sử nói chung, về cách mạng tư sản nói riêng.
Việc rút bài học kinh nghiệm lịch sử cho cuộc sống được tiến hành qua việc so sánh, đối chiếu. Công việc này, trước hết phải đáp ứng từ những quy tắc cơ bản của phương pháp luận cứ học và từ thực tiễn lịch sử và nhằm vào yêu cầu của hiện tại. Do đó, giáo viên cần lưu ý học sinh không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử quá khứ mà còn hiểu biết sâu sắc về tình hình chính trị xã hội ngày nay để cho sự so sánh đối chiếu không rơi vào công thức. Về mặt sư phạm phải chú ý đến đặc điểm của lứa tuổi, tâm lý, trình độ học sinh.
Có nhiều biện pháp tiến hành việc so sánh, đối chiếu, liên hệ tài liệu lịch sử với hiện tại.
Rút bài học kinh nghiệm lịch sử cho hiện tại khi học các sự kiện quá khứ (Rút bài học về Công xã Pa ri cho cách mạng Việt Nam).
Nêu triển vọng của một sự kiện lịch sử đang học trong khóa trình phát triển của nó, Qua học tập Lịch sử cách mạng Việt Nam 1930-1945, nêu sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc với các cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 và thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945.
So sánh những hiện tượng xã hội cùng loại, những hiện tượng cùng có nguồn gốc và đang phát triển trong hiện tại để hiểu rõ bản chất của nó (Khi học về chủ nghĩa đế quốc vào thế kỉ XIX- đầu thé kỉ XX, so sánh nó với giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa tư bản hiện đại để thấy rằng dù có những đặc điểm trong mỗi giai đoạn của chủ nghĩa tư bản nhưng về bản chất của nó không hề thay đổi.
So sánh, đối chiếu những sự kiện quá khứ và hiện tại để hiểu rõ hơn những sự kiện ấy. Liên hệ công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa của dân tộc trong những thời kì trước để hiểu rõ nhiệm vụ của chúng ta ngày nay trong việc kế thừa, bảo vệ, phát triển di sản văn hóa của dân tộc trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay.
So sánh, đối chiếu hai sự kiện trái ngược nhau để nêu lên bản chất của mỗi sự kiện (Tìm hiểu các bên tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thư nhất, thứ hai... để xác định tính chất chính nghĩa hoặc phi nghĩa của mỗi bên).
Nhấn mạnh những vấn đề quá khứ vẫn có ý nghĩa với thời đại hiện nay (Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, về xã hội hạnh phúc, ấm no, văn minh tiến bộ).
Việc so sánh liên hệ, đối chiếu lịch sử với hiện tại phải sát đúng (Tài liệu quá khứ, tình hình hiện nay), thiết thực rút bài học có ích.
Hiệu quả của sáng kiến:
 Năm học 2017 – 2018, tôi đã áp dụng các biện pháp trên với các khối lớp8, 8/1và 8/2 và đã đạt được hiệu quả như sau: 
Kết quả đầu năm ( trước khi áp dụng- Thông qua khảo sát chất lượng đầu năm)
Kết quả cuối học kì I 
(sau khi áp dụng)
TS HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
79
4
19
34
16
6
24
33
15
6
1
Kết quả học kì II
Kết quả thông qua điểm TB các điểm bài kiểm tra
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
79
40
32
7
0
0
Kết quả cả năm
Kết quả thông qua điểm TB các điểm bài kiểm tra
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
79
38
35
6
0
0
Qua đối chiếu so sánh trên thấy rằng số lượng yếu kém, trung bình giảm dần, khá giỏi tăng. Đặc biệt là học sinh yêu bộ môn hơn. Cuối năm học chất lượng nâng cao. Đây chính là chất lượng thực tế qua quá trình áp dụng cải tiến một số biện pháp trong năm học. Được như vậy là nhờ vào sự kiên trì nỗ lực của thầy và trò, sự phối hợp giữa dạy và học, sự quan tâm về việc nâng cao chất lượng dạy và học của tổ chuyên môn của nhà trường.
Với các biện pháp và kết quả đạt được như trên tôi đưa ra để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo.
 IV. KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT.
1. Kết luận chung: 
Trong tình hình thực tế hiện nay, hầu hết học sinh không yêu thích, không đăng kí thi tốt nghiệp hay chất lượng thi vào các trường Đại học thấp là do nhiều yếu tố như lượng kiến thức đưa vào giảng dạy lớn, nhiều sự kiện phức tạp mà chỉ dùng cho các lớp cao hơn do đó học không hiểu nên sợ. Để đạt được hiệu quả cao trong việc giảng dạy và nâng cao chất lượng thực đối với học sinh không phải là một sớm một chiều. Đây là việc làm thường xuyên liên tục và là vấn đề đáng quan tâm của từng giáo viên giảng dạy môn lịch sử, toàn ngành giáo dục và xã hội. Để thực hiện được cần dựa vào rất nhiều yếu tố tương tác nhưng quan trọng nhất là yếu tố người dạy và sự cộng tác học tập của người học. Sự chỉ đạo sát sao của trường, sự phối hợp của các cha mẹ học sinh, của mọi người xung quanh.
- Đối với người dạy: Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học tích cực, phát huy năng lực học sinh giáo viên phải thực sự tâm huyết, tìm kiếm những phương pháp, biện pháp hay nhất. 
- Đối với người học phải chủ động lĩnh hội kiến thức, hứng thú học bài, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn. 
- Con đường dẫn đến thành công trong việc giảng dạy tạo cho học sinh hứng thú học tập có lẽ gặp rất nhiều thác ghềnh nhưng tôi tin chúng ta những người giảng dạy lịch sử sẽ tìm cho mình một con đường với những giải pháp hay nhất để vượt qua tất cả hoàn thành nhiệm vụ quan trọng nặng nề mà xã hội giao cho. Đó là "sự nghiệp trồng người". Chúc các bạn thành công.
2. Đề xuất để áp dụng sáng kiến:
- Nhà trường và các tổ chuyên môn, tổ chức đoàn thể phải phối hợp đồng bộ. Sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn. Trang bị đồ dùng dạy học, đặc biệt là các tư liêu lịch sử bằng hình ảnh, máy chiếu để giảng dạy thì mới đáp ứng việc nâng cáo hiểu quả giảng dạy lịch sử trong nhà trường. Ủng hộ giáo viên bộ môn và học sinh về vật chất, tinh thần. Đây chính là động lực thôi thúc học sinh học tập có hiệu quả nhất. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp để học sinh biết xác định tương lai của mình. 
 Phong Thạnh Đông, ngày 25 tháng 9 năm 2019
 Người viết sáng kiến
 PHẠM ĐÌNH TỨ

File đính kèm:

  • docchuyen_de_tao_bieu_tuong_hinh_thanh_khai_niem_la_con_duong_c.doc
Sáng Kiến Liên Quan