Báo cáo sáng kiến Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi khám phá khoa học
Giáo dục mầm non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, chiếm vị trí quan trọng trong nền giáo dục Việt Nam. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình, là tương lai của cả dân tộc, việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không phải chỉ là trách nhiệm của mọi người mà là nhiệm vụ chung của toàn xă hội và của cả nhân loại. Đây là thời kỳ giữ vai trò quan trọng nhất trong việc lĩnh hội những khái niệm đạo đức sơ đẳng và việc hình thành những hành vi phù hợp với khái niệm ấy. Chính vì thế, nhiệm vụ của nhà giáo dục là phải quan tâm, trang bị cho trẻ những tri thức khoa học và nhân cách toàn diện để theo kịp thời đại.
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ khám phá khoa học là không thể thiếu, có tác dụng giáo dục về mọi mặt đối với trẻ như là : ngôn ngữ , đạo đức , trí tuệ , thẩm mỹ thể lực . Khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường xung quanh, môi trường xã hội để giao lưu và bầy tỏ nguyện vọng của mình và đồng thời là công cụ của tư duy .
Khi nói đến trẻ mầm non không ai không biết trẻ ở lứa tuổi này rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh bởi thế giới xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn, và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá. Khám phá khoa học mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ, từ môi trường tự nhiên ( cỏ cây, hoa lá, chim muông.) đến môi trường xã hội ( công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ của con người với nhau ) và trẻ hiểu biết về chính bản thân mình, vì thế trẻ luôn có niềm khao khát khám phá , tìm hiểu về chúng. Khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan.
đường, muối, bột ngọt và không thể hòa tan một số thứ như sỏi, đá Qua việc tạo các điều kiện cho trẻ tiếp xúc các sự vật hiện tượng và môi trường xung quanh bằng các thí nghiệm, thử nghiệm tôi thấy nhận thức của trẻ được mở rộng, khả năng quan sát, tri giác của trẻ phát triển tốt đa số trẻ thể hiện được tính tích cực chủ động khi quan sát đối tượng trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và phát triển nhiều vốn kinh nghiệm, vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn khả năng diễn đạt tổt hơn. 4. Biện pháp 4: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan: Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc giúp trẻ tiếp thu những kiến thức. Bởi lẽ trực quan trong dạy học huy động được tất cả các giác quan tham gia vào quá trình nhận thức của trẻ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với tiết khám phá khoa học cho nên ngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu nhà trường trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti vi, bảng, tranh ảnh lô tô, và một số các mô hình mô phỏng để phục vụ dạy học. Khi lập kế hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền tải kiến thức với trẻ đặc biệt đồ dùng trực quan vừa phải mang tính thẩm mỹ, tính chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu biết ở trẻ Phương tiện trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng như: Đồ dùng trực quan bằng vật thật: cốc,chén, con cá, các loại rau-quả, Các loại mô hình: Mô hình máy bay, Tàu hỏa...Các loại tranh ảnh, lô tô. Tôi luôn lưu ý tới việc sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội dung từng tiết dạy ngay từ khi lập kế hoạch cho mỗi tiết khám phá khoa học tôi luôn suy nghĩ và lựa chọn những đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và thích thú đối với những tiết chủ đề về môi trường xã hội thì tôi lựa chọn tranh, ảnh để dạy trẻ. Đối với những đồ dùng trực quan là đồ chơi tôi đưa vào trong các tiết dạy như: Đồ chơi của bé, phương tiện giao thông, con vậtQua những đồ chơi được làm khéo léo giống với thực tế sẽ giúp trẻ chú ý quan sát đồ chơi, chơi với đồ chơi để khám phá những kiến thức về đối tượng. Vì trẻ mẫu giáo có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng nhất. Ví dụ: tìm hiểu về quả cam Khi tìm hiểu về quả cam tôi dùng quả cam thật cho trẻ quan sát và trải nghiệm. - Đây là quả gì? nhìn xem quả cam có hình gì? Màu gì? - Hãy sờ xem vỏ của chúng có đặc điểm gì? muốn biết cam có mùi gì hãy đưa lên mũi ngửi xem nào Cuối cùng tôi cho trẻ tự lấy dao bổ cam và nếm thử vị của cam sau đó hỏi trẻ về vị của cam (có trẻ nói chua, trẻ nói ngọt) từ đó tôi giải thích “Qủa cam chưa chín có vị chua, còn quả cam chín có vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền đạt. Qua bài về quả cam tôi không những đã cho trẻ tìm hiểu một cách tổng quát về quả cam mà còn dạy trẻ kĩ năng bổ cam và vứt rác đúng nơi. Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan vì vậy tôi thường xuyên sử dụng tạo điều kiện để cho trẻ nắm kiến thức.Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ vì tất cả những sự vật hiện tượng đều có thể chụp lại, quay lại để đưa lên màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự vật- hiện tượng, con vật mà trẻ khó có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động vật sống trong rừng, động vật sống dưới biển Việc sử dụng đồ dùng trực quan phải được sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Trong tiết dạy tôi không sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối cũng không sử dụng quá nhiều loại ôm đồm để trẻ khó hiều mà tôi phối hợp các loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt từng phần sao cho trẻ không nhàm chán. Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại rau tôi có thể sử dụng một số loại đồ dùng như: Tranh lô tô, vật thật, đồ chơi, màn hình, mô hình kết hợp với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cho trẻ đi thăm mô hình vườn rau với nhiều loại rau, phần cung cấp kiến thức cho trẻ quan sát các loại rau thật, phần mở rộng cho trẻ xem trên màn hình một số loại rau khác và các món ăn từ rau, phần luyện tập cho trẻ đi chơi trò chơi qua những đồ rau nhựa, tranh lô tô. Việc kết hợp sử dụng linh hoạt các loại đồ dùng trực quan trong tiết học tôi thấy trẻ hứng thú hơn mỗi khi học khám phá khoa học, kiến thức tôi truyền đạt vì thế mà dễ dàng và trẻ ghi nhớ hơn. 5. Biện pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá khoa học: Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy, ngay từ cấp học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ thông tin như một phần của hoạt động giáo dục không thể thiếu(chuyên đề công nghệ thông tin). Không chỉ với người lớn mà đối với trẻ em mầm non thì công nghệ thông tin luôn mang lại nhiều điều kì thú và hữu ích trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống. Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiết thức cho trẻ không phải sự vật hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt động khám phá khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy bay, các hiện tượng tự nhiên, .hay chúng ta không thể có thời gian để chứng kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh sản của một số loại vật nuôi, quá trình phát triển của câychính vì vậy để trẻ được tìm hiểu thế giới xung quanh một cách bao quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học là một việc cần thiết. Được ưu thế là một giáo viên trẻ và có khả năng sử dụng công nghệ thông tin khá thành thạo tôi rất quan tâm và thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin như các bài powerpoint, Elearning vào các tiết học. Tôi nhận thấy khi sử dụng công nghệ thông tin vào các tiết khám phá khoa học trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích thú và cũng giúp trẻ nhận biết sự vật- hiện tượng một cách rõ ràng hơn. Ví dụ 1: Tìm hiểu về “Mưa có từ đâu?” Tôi sử dụng bài powerpoint trình chiếu các quá trình tạo thành mưa (ánh nắng chiếu xuống mặt nước – Nước bốc hơi- Tạo thành mây - Gió thổi mây thành đám nặng rồi rơi xuống thành mưa) Sau khi tìm hiểu xong về quá trình tạo thành mưa tôi cho trẻ xem phim hoạt hình “Đám mây đen xấu xí” vừa là phim vừa đám ứng việc củng cố kiến thức về quá trình tạo thành mưa cho trẻ. Thông qua việc trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ vừa như được giải trí và cũng là khi lượng kiến thức cần cung cấp cho trẻ đảm bảo trọn vẹn Hình ảnh 11: Ứng dụng CNTT trong tiết dạy: Tìm hiểu về mưa Ví dụ 2: Trò chơi “Tìm lá cho hoa” chủ đề Thế giới thực vật. Cách chơi: Trên màn hình xuất hiện những hình ảnh về 1 số cành hoa bất kì sau đó biến mất chỉ xuất hiện hoa và lá riêng rẽ nhiệm vụ của trẻ di chuột sắp xếp hoa và lá lại thành một bông hoa có cành lá chính xác. Khi trẻ đã chơi thành thạo tôi nâng cao trí nhớ cũng như sự nhanh nhẹn của trẻ bằng cách chỉnh thời gian xuất hiện hoa ban đầu nhanh hơn hoặc cao hơn nữa là không có sự xuất hiện của cành hoa ban đầu mà đòi hỏi trẻ phải có trí nhớ, kĩ năng từ những lần chơi trước tự xếp lá cho hoa đúng theo yêu cầu. Ví dụ 3: Tìm hiểu “ Lợi ích của điện và sự tiết kiệm điện” Tôi đã sử dụng bài powerpoint trình chiếu một số lợi ích của điện đối với đời sống của con người và cách sử dụng điện một cách an toàn, tiết kiệm. Để hiểu rõ hơn vì sao phải sử dụng điện tiết kiệm, tôi đã cho trẻ xem video chập cháy điện do sử dụng điện quá tải. Không chỉ dừng lại ở vậy mà tôi còn thiết kế trò chơi bằng cách chọn đáp án đúng sai để trẻ chơi. Nhờ vậy mà lượng kiến thức tôi truyền đạt tới trẻ được trẻ nhớ lâu hơn, chính xác hơn. Ví dụ 4: Khám phá về “ Một số quy định về giao thông đường bộ” Mặc dù trẻ được trải nghiệm thực tế khi cùng người lớn tham gia giao thông, nhưng tôi vẫn muốn cho trẻ thấy trực tiếp hình ảnh để trẻ có thể nêu nhận xét chính xác và khắc sâu kiến thức cho trẻ. Nhưng tôi không thể dẫn trẻ ra ngoài ngã tư để quan sát thực tế được, do vậy tôi đã quay những hình ảnh về ngã tư đường phố, hình ảnh về biển báo... để trẻ được quan sát. Từ đó nêu được nhận xét về những hành vi đúng, sai của những người tham gia giao thông, những quy định giao thông, quá đó giáo dục trẻ biết chấp hành luật lệ giao thông. Việc triển khai chuyên đề về công nghệ thông tin trong trường mầm non được ban giám hiệu và giáo viên rất quan tâm. Đặc biệt là đối với trẻ 5-6 tuổi, các trò chơi thông minh, sáng tạo luôn làm trẻ tò mò và hứng thú. Biết được điều đó tôi thường xuyên tìm hiểu những trò chơi thông minh có liên quan tới chủ đề, chủ điểm mà trẻ đang học vừa giúp trẻ thỏa mãn tính tò mò cũng như củng cố, mở rộng hiểu biết về bài học với trẻ hơn. Qua công nghệ thông tin, tôi đã giúp trẻ có thêm kĩ năng sử dụng máy tính, đồng thời giúp trẻ củng cố, ghi nhớ bài học sâu sắc hơn. 6. Biện pháp 6: Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại ở trẻ. Một trong những phương pháp quan trọng và không thể thiếu đối với khám phá khoa học là quan sát, so sánh và phân loại .Với mỗi bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen, tôi tìm những cách vào bài khác nhau để gây sự chú ý, tò mò của trẻ có thể dùng câu đố, bài hát Để trẻ nhận biết đối tượng bằng tranh ảnh và đồ vật, vật thật và mô hình. Với mỗi đối tượng trẻ được làm quen, trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết đưa ra ý kiến nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần làm quen như vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những hiểu về vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng . Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại khi trẻ quan sát tôi hướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra chọn vẹn đối tượng đó. Qua hoạt động cho trẻ quan sát cô đưa ra các câu hỏi đàm thoại để cho trẻ so sánh và phân loại từ đó sẽ phát huy khả năng sáng tạo và tư duy cho trẻ. Ví dụ : Cô và trẻ quan sát bồn hoa của lớp có nhiều loại hoa khác nhau, hướng trẻ nhận biết màu sắc cánh hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn. Đưa hoa nên ngửi có mùi thơm . Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh . Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời, không những để trẻ khám phá thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường. Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về công việc của mỗi người, về mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giáo dục Bảo vệ môi trường. Với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn giản như tạo cho trẻ thói quen vứt rác đúng nơi quy định, chăm sóc vườn rau bắt sâu cho rau và ý thức bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp. 7. Biện pháp 7: Kết hợp với với phụ huynh. Để nâng cao chất lượng hoạt động của trẻ trong trường mầm non, để có sự giáo dục toàn bộ giữa gia đình và nhà trường là một việc làm hết sức cần thiết tôi thấy rằng tất cả mọi khó khăn trong học tập không thể thiếu được vai trò giải quyết khó khăn của phụ huynh vì thế ngay từ đầu năm học để phụ huynh hiểu thêm về các hoạt động của trẻ trong trường mầm non trường tôi đã tổ chức họp phụ huynh và tuyên truyền đến các bậc phụ huynh. Trong buổi học phụ huynh, tôi đã trao đổi với phụ huynh về bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi với các lĩnh vực như thể chất, phát triển tình cảm- quan hệ xã hội, phát triển ngôn ngữ và giao tiếp, lĩnh vực nhận thức đặc biệt là các chỉ số 92, 93, 97, 98...để phụ huynh hiểu và tạo điều kiện cho trẻ cũng như giáo viên khám phá thế giới xung quanh trẻ. Hình ảnh 12: Buổi họp phụ huynh đầu năm Với môi trường nông thôn đa số phụ huynh làm nông nghiệp, nên khi tôi động viên phụ huynh ủng hộ các nguyên liệu có sẵn của địa phương như đậu đỗ, lạc, ngô..và cây xanh thì phụ huynh đã nhiệt tình tham gia. Nhờ vậy mà khuôn viên cây xanh của lớp cũng da dạng và phong phú hơn, trẻ được tiếp xúc cũng như khám phá được phong phú hơn. Không những thế tôi còn thường xuyên tuyên truyền tới các bậc phụ huynh như thông qua bảng tuyên truyền của lớp, trang trí những hình ảnh của chủ đề đang học một cách sinh động. Thường xuyên trao đổi về tình hình sức khoẻ của trẻ, tình hình học tập của trẻ ở lớp, về các chủ đề chủ điểm trẻ đang học giúp phụ huynh nắm rõ từ đó có thể tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm ở nhà, củng cố thêm kiến thức . Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật”: khám phá về sự nảy mầm của cây. Trẻ được tham gia trải nghiệm và thực hiện công việc gieo hạt xong do thực nghiệm cần nhiều thời gian, trẻ mới thu được kết quả và có thể một số trẻ nghỉ, thông qua trao đổi với phụ huynh để phụ huynh nắm được từ đó tạo điều kiện cho trẻ được thực hiện việc gieo hạt ở nhà, khi được cô thường xuyên hỏi thăm về sản phẩm thì trẻ tỏ ra rất hứng thú, khi chính trẻ thực hiện và khám phá. Thông qua trao đổi với các bậc phụ huynh, tôi đã vận động các bậc phụ huynh tham gia đóng góp thêm các loại đồ dùng như sách báo, lịch cũ, cây cối, tranh ảnh....nhờ các bậc phụ huynh sưu tầm những vật liệu hỏng bỏ đi để gom lại mang về làm đồ chơi như mẹ cháu Thanh Hiền làm thợ may nhờ chị sưu tầm cho vải vụn ,đôi khi tôi cũng nhờ chị may cho những bộ trang phục búp bê bằng vải vụn, bác Thủy làm thợ mộc nhờ bác sưu tầm các khối gỗ để làm đồ chơi xếp nhà, xếp ô tô...Hàng ngày trước khi dạy một bài tìm hiểu nào tôi thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh về bài học ngày hôm nay về nhà các bậc phụ huynh cùng trò chuyện với trẻ về bài học hoặc có thể cung cấp cho trẻ một số kiến thức để cho trẻ học tập tốt hơn. Hình ảnh 13: Giáo viên trao đổi với phụ huynh và phụ huynh tặng cây V/ HIỆU QUẢ CỦA SKKN: Qua một thời gian áp dụng những biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi khám phá khoa học vào trong quá trình dạy trẻ, tôi đã đạt được những kết quả như sau: 1. Hiệu quả đối với trẻ: - Trẻ thấy yêu thích môi trường lớp học của mình, hứng thú khi đến lớp. - Trẻ mạnh dạn hơn, tích cực tham gia hoạt động phát huy tính sáng tạo và khả năng tư duy. - Trẻ đã nhận biết rõ nét và chính xác tên goi cũng như đặc điểm của các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ. - Trẻ biết cách so sánh, phân loại, phân nhóm và giải thích được một số sự vật, hiện tượng gần gũi với trẻ. STT NỘI DUNG Số trẻ Đầu năm Cuối năm Đ CĐ Đ CĐ 1 Trẻ có khả năng tìm tòi, khám phá đối tượng 42 30 12 40 2 Tỷ lệ % 71 29 95 5 2 Khả năng nhận biết tên gọi, tính chất, đặc điểm rõ nét của đối tượng làm quen 42 31 11 40 2 Tỷ lệ % 74 26 95 5 3 Biết so sánh nhận xét một số đặc điểm giống và khác nhau của 2 đối tượng 42 29 13 39 3 Tỷ lệ % 69 31 93 7 4 Phân nhóm, phân loại theo dấu hiệu rõ nét 42 28 14 38 4 Tỷ lệ % 67 33 90 10 5 Suy luận, giải thích được mối liên hệ đơn giản của hiện tượng sự vật xung quanh 42 28 14 38 4 Tỷ lệ % 67 33 90 10 2. Hiệu quả đối với giáo viên: - Giáo viên đã linh hoạt, tự tin hơn khi tiến hành hoạt động cho trẻ khám phá khoa học. - Giáo viên thường xuyên trau dồi kiến thức, kỹ năng, nghệ thuật chăm sóc và giảng dạy trẻ. - Tạo được môi trường học phong phú với nội dung của từng chủ đề, đồ dùng đồ chơi và trang thiết bị cũng đã được trang bị đầy đủ hấp dẫn trẻ. 3. Hiệu quả đối với phụ huynh: - Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc cho trẻ khám phá khoa học, cùng phối kết hợp với cô giáo tạo điều kiện cho trẻ được làm quen với khám phá khoa học đạt kết quả cao nhất, điều đó cũng đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ. V/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Trong tiết học làm quen với môi trường xung quanh, muốn trẻ nhận thức được một cách nhanh chóng, đầy đủ, chính xác những kiến thức mà cô truyền đạt thì phải có một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ để lôi cuốn trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động khám phá kiến thức. Muốn gây được hứng thú cho trẻ thì cô phải sử dụng một số biện pháp sau: - Giáo viên phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn để cho trẻ khám phá khoa học một cách sinh động và hấp dẫn - Tạo được môi trường học phong phú với nội dung của từng chủ đề, đồ dùng đồ chơi và trang thiết bị cũng đã được trang bị đầy đủ hấp dẫn trẻ. - Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích thích hứng thú, tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ, tôi thường sử dụng đồ thật, vật thật hoặc hình ảnh động cho tiết học sinh động. - Thường xuyên tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động trải nghiệm qua các thí nghiệm khoa học để trẻ phát huy hơn nữa khả năng quan sát, so sánh và phân loại ở trẻ. - Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cô giáo và gia đình trong việc tổ chức cho trẻ thực hiện các hoạt động trong trường mầm non. - Thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá khoa học C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.Kết luận: Khám phá khoa học là một hoạt động có chủ định trong chương trình giáo dục mầm non. Thông qua hoạt động khám phá khoa học giúp trẻ nhận thức về thế giới xung quanh, thu hút được sự chú ý của trẻ sẽ kích thích được khả năng tư duy, sáng tạo, góp phần tích cực phát triển lĩnh vực nhận thức cũng như phát triển toàn diện đối với trẻ. Khám phá khoa học giúp trẻ được trải nghiệm, được thực hành các kỹ năng, sự hiểu biết của mình thông qua các trò chơi, thí nghiệm khoa học. Từ đó trẻ sẽ lĩnh hội được vốn kiến thức, kỹ năng mới cho bản thân mình. Không chỉ có vậy, thông qua các giờ trải nghiệm, khám phá khoa học tư duy của trẻ sẽ được kích thích nhiều hơn, trí tưởng tượng phong phú hơn thông qua đó giúp trẻ phát triển trí tuệ của mình. Các chuyên gia Tâm lý Nga cho rằng “Tư duy chỉ xuất hiện khi có tình huống có vấn đề” Nhận thức rõ được tầm quan trọng của bộ môn khám phá khoa học nên tôi cũng mạnh dạn tìm hiểu, trải nghiệm và đưa ra một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi khám phá khoa học. Qua đây tôi cũng mong rằng bộ môn khám phá khoa học sẽ không còn là bộ môn khó nữa, mà nó sẽ là bộ môn hấp dẫn, phong phú đối với cả cô giáo và trẻ vì không chỉ có trẻ được trải nghiệm mà giáo viên cũng tăng thêm hiểu biết rất nhiều. Chính vì thế tôi mong muốn các biện pháp này sẽ được nhân rộng, phát triển hơn nữa để tiến tới một bộ môn khoa học lý tưởng hấp dẫn với trẻ mầm non. 2/ Kiến nghị: a.Với phòng giáo dục: Phòng giáo dục mở thêm các lớp học vi tính, cài đặt phần mềm cũng như sử dụng các phần mềm vào giảng dạy để nhiều giáo viên được học tập tiếp cận công nghệ thông tin và có thể thiết kế và sử dụng thành thạo các bài dạy trên máy Phòng giáo dục đầu tư kinh phí xây dựng trường rỗng rãi để trường có những khuôn viên trồng cây, cũng như tạo nhiều không gian để trẻ tiếp cận nhiều hơn với thiên nhiên. b.Với nhà trường : Ban giám hiệu nhà trường đầu tư thêm tài liệu, sách báo, tạp chí ....về khám phá môi trường xung quanh ở các lứa tuổi để giáo viên tham khảo từ đó nâng cao chất lượng chuyên môn và giảng dạy giúp trẻ phát triển tốt về mọi mặt. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi về một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng sáng kiến để bản sáng kiến của tôi được hoàn thiện tốt hơn và áp dụng hiệu quả hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! D/ TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1/ Chương trình giáo dục Mầm non – TS Trần Ngọc Trâm - TS Lê Thu Hương - PGS. TS Lê Thị Ánh Tuyết Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 2/ Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 3/ Một số biện pháp hướng dẫn tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường Mầm non - Bùi Kim Tuyến – Phan Thị Ngọc Anh Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 4/ Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục trong trường mầm non theo chủ đề ( Trẻ 5 – 6 tuổi) - Lê Thu Hương Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 5/ Những sáng kiến kinh nghiệm chọn lọc nâng cao chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ - Phan lan Anh – Lý Thị Hằng – Nguyễn Thị Hiếu – Nguyễn Thanh Giang Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
File đính kèm:
- bao_cao_sang_kien_mot_so_bien_phap_gay_hung_thu_cho_tre_5_6.doc