SKKN Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường Trung học Phổ thông Đô Lương 4

Thế nào là học sinh có năng khiếu vượt trội?

Một người có năng khiếu được định nghĩa chung nhất là có một hoặc nhiều

khả năng vượt trội hơn người bình thường về các hoặt động về thể chất hoặc trí

tuệ. Có rất nhiều khái niệm về năng khiếu khác nhau, cụ thể như:

Theo Wikipedia là một thành phần năng lực để thực hiện một loại công việc

nhất định ở một mức độ nhất định. Năng khiếu vượt trội có thể được coi là “tài

năng”. Một năng khiếu có thể là thể chất hoặc tinh thần. Năng khiếu là tiềm năng

bẩm sinh để làm một số loại công việc cho dù phát triển hay chưa phát triển.

Năng khiếu được hiểu là năng lực về một hoạt động nào đó nhưng chưa có

cơ hội bộc lộ ở thành tích cao vì chưa qua tập luyện,rèn luyện nên còn thiếu hiểu

biết và chưa thành thạo trong lĩnh vực hoạt động đó và khi trau dồi năng lực đó thì

hiệu quả đem lại cao.

Năng khiếu vượt trội là những tiền đề bẩm sinh của mỗi con người hay

những khuynh hướng đầu tiên tạo điều kiện cho năng lực và tài năng phát sinh, nó

bao gồm đặc điểm tâm sinh lý giải phẫu của hệ thần kinh con người và khuynh

hướng tâm lý đầu tiên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển một năng lực

nào đó.

Năng khiếu của trẻ được hình thành và phát triển từ rất sớm, thậm chí từ lúc

bé mới được sinh ra. Khoa học đã chứng minh năng khiếu của trẻ có quy luật giảm

dần, có nghĩa là càng lớn, năng khiếu của bé sẽ mai một dần nếu không được phát

hiện, bồi dưỡng sớm và đúng cách. Chẳng hạn, với một em bé khi sinh ra có 100%

năng lực, nếu được bồi dưỡng từ 3 tuổi, bé sẽ phát huy được 90%, nhưng đến lúc

5-6 tuổi thì chỉ còn 70%, hoặc đến 10 tuổi thì đôi khi chỉ còn 50%. Nhiều trẻ tỏ ra

đặc biệt thích một lĩnh vực nào đó, nhưng cha mẹ và nhà trường thiếu quan tâm, vô

hình chung đã bỏ phí năng khiếu của trẻ.

Vì thế, năng khiếu vượt trội là nền tảng phát triển những tài năng, nếu năng

khiếu được phát triển kịp thời và có phương pháp nuôi dưỡng phát triển năng khiếu

thì kết quả đem lại hiệu quả cao. Người có năng khiếu còn là người có các cảm

giác đặc biệt về nhiều lĩnh vực và nhà trường, phụ huynh cần quan tâm để biết các

em có thể rèn luyện và phát triển tốt hơn khả năng của mình.

pdf25 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 02/03/2022 | Lượt xem: 631 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường Trung học Phổ thông Đô Lương 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành đạt trong các lĩnh vực nào đó, thực sự là tấm
gương sáng để học sinh noi theo, phù hợp với nhu cầu hứng thú của học sinh.
- Thu hút sự tham gia đông đảo và tự nguyện của học sinh, được học sinh quan tâm
và hào hứng.
- Phải có sự trao đổi thông tin, tình cảm hết sức trung thực, chân thành và sôi nổi
giữa học sinh với người được giao lưu. Những vấn đề trao đổi phải thiết thực, liên
quan đến lợi ích và hứng thú của học sinh, đáp ứng nhu cầu của các em.
16
Với những đặc trưng trên, hoạt động giao lưu rất phù hợp với các HĐTNST theo
chủ đề. Hoạt động giao lưu dễ dàng được tổ chức trong mọi điều kiện của lớp, của
trường.
3.3.2. Tích hợp trong nội dung giáo dục địa phương:
Nội dung giáo dục địa phương là những vấn đề cơ bản hoặc thời sự về văn hoá,
lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp,... của địa phương bổ sung
cho nội dung giáo dục theo qui định chung thống nhất trong cả nước, nhằm trang
bị cho học sinh những hiểu biết về nơi sinh sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu
quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã học để vận dụng vào thực
tiễn ở địa phương.Căn cứ vào đặc điểm của từng vùng miền, các cơ sở giáo dục lựa
chọn những nội dung phù hợp để biên soạn tài liệu tích hợp giáo dục nghệ thuật
theo các chủ đề và hướng dẫn nhà trường trên địa bàn tổ chức thực hiện. Theo cấu
trúc của chương trình giáo dục, ở cấp tiểu học, nội dung giáo dục của địa phương
được tích hợp với Hoạt động trải nghiệm; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học
phổ thông, nội dung giáo dục của địa phương có vị trí tương đương các môn học
khác, do đó, việc tiến hành giáo dục nghệ thuật có thể gắn với:
- Các vấn đề về văn hóa, lịch sử truyền thống của địa phương (Lễ hội truyền thống;
các loại hình nghệ thuật truyền thống; truyền thống quê hương; phong tục, tập
quán địa phương; xây dựng nếp sống văn minh, tôn trọng kỉ cương, pháp luật;
danh nhân văn hóa; di tích lịch sử; bảo tàng, lịch sử hình thành và phát triển của
địa phương).
- Các vấn đề về địa lí, kinh tế, hướng nghiệp của địa phương (Địa lí tự nhiên; địa lí
dân cư; địa lí kinh tế xã hội; địa lí du lịch; làng nghề truyền thống; các ngành kinh
tế mũi nhọn của địa phương).
- Các vấn đề về chính trị - xã hội, môi trường của địa phương (Chính sách an sinh
xã hội; các vấn đề giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, kĩ năng sống; bảo vệ môi
trường, đa dạng sinh học; ứng phó với biến đổi khí hậu).
Các giải pháp cơ bản đề xuất trên đây nhằm phát triển ở học sinh các phẩm
chất chủ yếu và năng lực chung – trong đó môn Âm nhạc hình thành và phát triển
cho học sinh năng lực thể hiện âm nhạc, cảm thụ và hiểu biết âm nhạc, ứng dụng
và sáng tạo âm nhạc, góp phần phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng
khiếu âm nhạc; môn Mĩ thuật hình thành và phát triển cho học sinh năng lực quan
sát và nhận thức thẩm mĩ, sáng tạo và ứng dụng thẩm mĩ, phân tích và đánh giá
thẩm mĩ, tạo cơ hội để học sinh trải nghiệm và ứng dụng mĩ thuật vào thực tiễn,
phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu.
Albert Einstein cho rằng: "Tất cả những điều có giá trị trong xã hội con
người đều dựa vào cơ hội phát triển hòa hợp trong mỗi cá nhân". Để trở thành
người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hoá, cần cù, sáng tạo trong
thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động giáo dục nghệ thuật
nói riêng và giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường nói chung gắn với hệ giá trị cần
hình thành và phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất của mỗi học sinh.
17
3.4. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong việc phát hiện và bồi
dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội          
Để đào tạo ra những con người phát triển toàn diện cả đức - trí - thể - mỹ
ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì không chỉ có vai trò của nhà trường,
mà còn rất cần sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ của gia đình và cộng đồng. Đó là ba
môi trường giáo dục quan trọng tạo thành thế “chân kiềng” vững chắc để cùng giáo
dục, hình thành nhân cách và vun đắp sự trưởng thành của một con người. Đồng
thời, sự phối hợp vững chắc giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng sẽ góp phần
sớm phát hiện, rèn luyện và phát triển năng khiếu vượt trội của các em học sinh.
Cha mẹ không nên ảo tưởng về năng khiếu của con mình. 
Khi con tỏ ra đặc biệt thích một lĩnh vực nào đó, hãy kiên trì theo dõi cùng với
giáo viên chủ nhiệm để có thể định hướng cho con đúng lúc.
Khi đã phát hiện ra trẻ có năng khiếu đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó, cần tạo
điều kiện cho con tiếp xúc nhiều với lĩnh vực ấy. Tạo cho con niềm say mê hứng
thú, chứ không phải là gáng nặng thành tích, điểm số.
Trên thực tế, không phải năng khiếu nào cũng có thể phát triển thành thiên tài.
Vì vậy, những năm qua, công tác phối hợp giáo viên chủ nhiệm, gia đình,
nhà trường được quan tâm và bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực. 
4. Những kết quả đạt được của đề tài
PHẦN BA: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm:
2. Kết luận:
3. Kiến nghị:
 Tài liệu tham khảo
18
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TIỂU HỌC
(Chuyên đề: Đổi mới phương pháp Giáo dục Tiểu học)
Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương
tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra,
phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm
riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp
dạy học và kinh nghiệm của cá nhân.
19
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền
giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc
hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học.
Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH ở Tiểu
học nói riêng là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành
động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng tất
yếu trong cải cách PPDH ở mỗi nhà trường.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập
nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên
lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện
GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của
đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và
một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan
tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua
việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy
học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức,
rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập
trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa
quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức
và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập
tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát
triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc
thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng
phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận
thức(tự chiếm lĩnh kiến thức) với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học.
Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức
tổ chức thích hợp như: học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp...
20
Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu
rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng KT vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho
người học.
Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui định. Có
thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và
phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng CNTT trong dạy học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực thể
hiện qua bốn đặc trưng cơ bản sau:
Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học sinh tự
khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức được
sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động
học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình
huống học tập hoặc tình huống thực tiễn...
Hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài liệu
học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và phát hiện
kiến thức mới... Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc
biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen để dần hình thành và phát triển
tiềm năng sáng tạo.
Ba, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở thành môi
trường giao tiếp GV - HS và HS - HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm
của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.
Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình
dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng phát
triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức
như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể
phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót(tạo điều kiện để
học sinh tự bộc lộ, tự thể hiện, tự đánh giá).
Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học:
1. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải
tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả
của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những
yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng
như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong
đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy
học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy
học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có thể tăng
21
cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan
điểm dạy học giải quyết vấn đề.
2. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá
trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao
chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể
là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có
những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng
phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm.
Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến
bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc
nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình
thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ
học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc
nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học,
sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu
trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm
xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên ngoài” của
học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” cần chú ý đến mặt bên
trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các
phương pháp dạy học tích cực khác.
3. Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề
Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết
vấn đề)là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết
và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình
huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học
sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. Dạy học giải quyết vấn
đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, có thể áp
dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực khác nhau của học
sinh. Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có
thể là những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, dạy
học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít
chú ý hơn đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải
quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được
chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học
giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình
huống.
4. Vận dụng dạy học theo tình huống
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ
chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và
22
nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều
kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của
việc học tập. Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan
đến nhiều môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với thực tiễn. Trong nhà
trường, các môn học được phân theo các môn khoa học chuyên môn, còn cuộc
sống thì luôn diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ
đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các môn
khoa học chuyên môn, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết các vấn đề phức
hợp, liên môn. Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học
điển hình của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình
huống điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm. Vận dụng dạy học
theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn việc đào tạo
trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo dục
hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, nếu các
tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô phỏng lại, thì chưa phải
tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý thuyết thì học
sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết
và thực hành.
5. Vận dụng dạy học định hướng hành động
Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí
óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học
sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự
kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan
điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng hành
động có ý nghĩa quan trong cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý
thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội. Dạy học theo dự
án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành động, trong đó học
sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn
đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể công bố.
Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học
hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy
học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định
hướng hành động.
6. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ
trợ dạy học
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy
học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Hiện
nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng
bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên
luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ
thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện
23
đại. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần
tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử
dụng mạng điện tử (E-Learning), mạng trường học kết nối, Trường học
lớn(BigSchool)
7. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh
trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy
học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có
những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp
dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng
phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của
người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, bản đồ tư duy, kỹ thuật khăn trải
bàn...
8. Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn
Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học, việc sử
dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ
môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận
dạy học bộ môn. Ví dụ: Thí nghiệm là một phương pháp dạy học đặc thù quan
trọng của các môn khoa học tự nhiên; các phương pháp dạy học như trình diễn vật
phẩm kỹ thuật, làm mẫu thao tác, phân tích sản phẩm kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật,
lắp ráp mô hình, các dự án là những phương pháp chủ lực trong dạy học kỹ thuật;
phương pháp “Bàn tay nặn bột” đem lại hiệu quả cao trong việc dạy học các môn
khoa học...
9. Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh
Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực
hoá, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung
như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm
việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của
từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các
phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn.
Tóm lại, có rất nhiều phương hướng đổi mới phương pháp dạy học với những cách
tiếp cận khác nhau, trên đây chỉ là một số phương hướng chung. Việc đổi mới
phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật
chất, kỹ thuật vàhình thức tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý lớp học.
Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh
nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến
phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân.
24
25

File đính kèm:

  • pdfskkn_phat_huy_vai_tro_cua_giao_vien_chu_nhiem_trong_viec_pha.pdf
Sáng Kiến Liên Quan