SKKN Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường tiểu học số 1 Kiến Giang

Trong thời kì đất nước Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Công nghệ thông tin có một vai trò cực kì quan trọng: Internet và Công nghệ thông tin đang góp phần làm thay đổi cuộc sống, “ Mọi người ở bất kì lứa tuổi nào, nếu được tiếp cận với Internet và Công nghệ thông tin có thể học được cách thích ứng với hoàn cảnh thay đổi “.

 Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Cần phải ứng dụng CNTT để nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý. Chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình,mục đích của mình.

 Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giaó dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”.

 Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của Bộ giáo dục, Sở giáo dục và đào tạo, nhận thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong việc đổi mới phương pháp dạy học và chắc chắn sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhà trường phổ thông trong một vài năm tới.

 Trong những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT đã rất phổ biến ở Việt Nam. Cùng với sự đi lên của xã hội, ngành Giáo dục cũng mạnh dạn đưa ứng dụng CNTT vào dạy học. CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung và phương pháp dạy học. Mặt khác, ngành Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. CNTT là phương tiện để giúp chúng ta tiến tới một “ xã hội học tập”. Bởi vậy, trong năm học 2008-2009 này, Bộ Giáo dục&đào tạo đã xác định: Phải đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong trường học để tạo bước đột phá về ứng dụng CNTT trong giáo dục và tạo tiền đề phát triển CNTT trong những năm tiếp theo.

 

doc13 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường tiểu học số 1 Kiến Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 quốc gia mức độ II.
Năm học 2008 - 2009 này, trường có tất cả 10 lớp với 307 học sinh. Tất cả các học sinh nói chung đều được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, của đội ngũ giáo viên. Ban giám hiệu luôn chỉ đạo, theo dõi sâu sát tất cả các vấn đề về chương trình, về thời gian lên lớp, về chất lượng học tập, về sự tiến bộ của học sinh. Đặc biệt, nhà trường rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, vấn đề rèn luyện cho các em tất cả các kĩ năng cơ bản, giúp các em phát triển toàn diện. Bên cạnh đó, phải kể đến sự hậu thuẫn rất chắc chắn của phụ huynh học sinh. Đa số phụ huynh rất quan tâm, chăm lo đến vấn đề học hành của con em họ. Học sinh đi học có đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập. Các em rất ngoan, lễ phép với thầy cô, học hành chăm chỉ, tiến bộ.
Tuy vậy, bên cạnh những mặt thuận lợi cơ bản, việc dạy và học trong nhà trường vẫn còn một số khó khăn. Đội ngũ cán bộ quản lý trong năm có sự xáo động: đồng chí Hiệu trưởng về nghỉ hưu, đồng chí hiệu phó lên đảm nhận cương vị phụ trách trường. Đội ngũ giáo viên có 01 đồng chí nghỉ sinh dài ngày ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ dạy học của nhà trường, 02 đồng chí con ốm đau nhiều, phải đi bệnh viện tuyến trên. Một số gia đình hoàn cảnh khó khăn, hoặc do công việc làm ăn của mình nên rất ít quan tâm đến việc học hành của con cái, phó mặc việc học của con cho nhà trường...
2.Thực trạng vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin ở trường tiểu học số 1 Kiến Giang trước năm học 2007- 2008:
* Về đội ngũ:
-100% cán bộ, giáo viên đạt trình độ đào tạo trên chuẩn, có chứng chỉ Tin học văn phòng, biết sử dụng máy tính, được bồi dưỡng soạn giáo án từ năm học trước.
- Tập thể sư phạm có ý thức học hỏi chuyên môn nghiệp vụ, phấn đấu vươn lên (đặc biệt là trên lĩnh vực Công nghệ thông tin ).
 Tồn tại về đội ngũ:
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ - giáo viên- nhân viên chưa đầy đủ, chưa sẵn sàng hưởng ứng chủ đề năm học và kế hoạch đẩy mạnh vận dụng Công nghệ thông tin của Ngành: Ngại làm việc với máy tính, thoả mãn với phương pháp dạy học cũ và những thành quả đạt được...
- Nhiều giáo viên có chứng chỉ Tin học nhưng sử dụng máy tính rất hạn chế : trình bày văn bản, đánh máy còn rất chậm nhất là phần Excel, PowerPoint. 
- Chưa có cán bộ -giáo viên có đủ trình độ Tin học, làm ‘kỹ thuật viên” giúp giáo viên xử lí khi máy có sự cố, bồi dưỡng thêm môn Tin học.
* Về cơ sở vật chất, trang thiết bị:
- Trường đã có 16 máy tính (01 máy xách tay), 02 máy chiếu, 01 máy Pôtôcoppi, đã kết nối Internet (1máy) phục vụ cho công tác quản lí, dạy học và bồi dưỡng giáo viên.
- Đã tổ chức dạy học môn tự chọn Tin học từ năm học 2005-2006, giáo viên có điều kiện tiếp xúc làm quen với máy tính.
- Có 15/23 cán bộ, giáo viên, nhân viên có máy tính ở gia đình đạt 65.2%.
Tồn tại về cơ sở vật chất:
- Số máy tính ở phòng máy còn ít (10 máy)
- Hệ thống điện không tải đủ cho mọi hoạt động ở trường.
 * Về thực trạng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học:
Từ năm học 2006-2007, công nghệ thông tin đã được nhiều giáo viên đón nhận một cách tích cực, bởi nó tạo ra một không khí học tập sôi nổi, thu hút sự chú ý của học sinh, học sinh thực sự làm chủ trong tiết học.Khi dạy bằng giáo án điện tử giáo viên đỡ vất vả hơn nhiều. Thay bằng các thao tác gắn đồ dùng lên bảng, giáo viên chỉ cần kích chuột là có. Dạy bằng giáo án điện tử còn tránh được tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học. Khi sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể thiết kế bài học như sách giáo khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, mất thơi gian mà hình ảnh lại nhỏ không rõ nét như khi đưa lên màn hình lớn. Những từ ngữ trọng tâm trong bài ta có thể đổi màu hoặc gạch chân sẽ giúp học sinh hiểu bài hơn. Ngoài ra, GV có thể lấy nhiều hình ảnh trên mạng làm bài giảng phong phú hơn. HS rất thích thú học.
Tuy nhiên, một số GV đã đúng tuổi, trình độ vi tính còn hạn chế rất vất vả khi sử dụng công nghệ thông tin vào bài học. GV ngại soạn bài bàng giáo án điện tử bởi thao tác chưa thuần thục, mất quá nhiều thời gian cho phần thiết kế bài dạy. Tâm trạng chung của GV chưa thật hào hứng, chưa thật tự nguyện.
iii. biện pháp chỉ đạo công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học của trường tiểu học số 1 kiến giang.
Từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng của công tác sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong nhà trường, tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp chỉ đạo như sau:
 Biện pháp 1: Làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương:
Là một trường trung tâm, có nhiều điều kiện thuận lợi, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong nhà trường là rất cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, đây là một việc làm rất mới mẽ, đòi hỏi nhà trường phải nỗ lực rất nhiều trong công tác tham mưu với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương.
 	 Nhà trường xem đây là một “động lực” hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất phục vụ dạy tốt-học tốt. Phương châm của nhà trường là: Tích cực tham mưu, chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy, nắm bắt thời cơ. Nội dung tham mưu là những nhu cầu cần thiết, những khó khăn vướng mắc của nhà trường về cơ sở vật chất liên quan Công nghệ thông tin. Để công tác tham mưu đạt kết quả cao, nhà trường bám sát Chỉ thị, công văn của Bộ GD-ĐT, của Sở GD-ĐT và của Phòng GD&ĐT huyện về hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Vì thế, trong kế hoạch phát triển giáo dục đã có sự ưu tiên mua sắm trang thiết bị về Công nghệ thông tin. 
	Song song bên cạnh đó, nhà trường nâng cao công tác tuyên truyền sâu rộng trong cha mẹ học sinh, cộng đồng xã hội để tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh, thuận lợi, thống nhất về mục tiêu giáo dục, huy đọng các nguồn lực. Nhà trường đã đưa hoạt động chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học vào Nghị quyết của Nhà trường. Tăng cường làm ảnh hưởng sâu rộng của công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tới Đảng, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế và cộng đồng xã hội. Tranh thủ sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân và sử dụng các nguồn vốn ủng hộ có hiệu quả.
Biện pháp 2: Nâng cao nhận thức cho tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên về tầm quan trọng của Công nghệ thông tin trong việc cập nhật, bổ sung kiến thức và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ( đặc biệt là chất lượng dạy học trên lớp):
 	Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã tổ chức cho đội ngũ học tập : Kế hoạch đẩy mạnh vận dụng Công nghệ thông tin, hưởng ứng chủ đề năm học của phòng Giáo dục-Đào tạo Lệ Thuỷ và góp ý xây dựng kế hoạch thực hiện của nhà trường. 
 Sau học tập mỗi cá nhân đăng kí hướng phấn đấu của mình: về năng lực, về kỹ năng sử dụng máy tính, mua sắm máy tính và văn bằng chứng chỉ Tin học ( tạo được sự thông cảm, giúp nhau vươn lên trên lĩnh vực Công nghệ thông tin. Vì đây là lĩnh vực mới). 	
Biện pháp 3: Chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, thấu đáo vấn đề đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đặt rõ mục tiêu cho từng đối tượng trong nhà trường:
Trong ban giám hiệu phân công rõ người rõ việc: Hiệu trưởng là người phụ trách chung. Phó hiệu trưởng thứ nhất phụ trách cơ sở vật chất, trực tiếp chỉ đạo, bảo quản, khai thác và sử dụng internet. Phó hiệu trưởng thứ hai trực tiếp chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
	Đối với cán bộ quản lý: Yêu cầu đặt ra: Phải sử dụng thành thạo chương trình Word, chương trình Power Point để chỉ đạo đội ngũ; thiết lập bộ hồ sơ quản lý trên máy; sử dụng mạng Lan để trao đổi thông tin, lập hộp thư điện tử cá nhân để khai thác thông tin trên mạng (đặc biệt là trang Webmail của phòng GD); tuyển chọn, hợp đồng giáo viên dạy tin học phải đạt trình độ đào tạo trở lên, có năng lực sử dụng các chương trình máy tính thành thạo, làm nòng cốt trong công tác bồi dưỡng tin học cho GV.
	Đối với tập thể giáo viên đứng lớp: 100% thiết kế bài dạy trên máy và sử dụng thành thạo giáo án điện tử; ngoài thời gian tự bồi dưỡng trình độ vi tính ở nhà, giáo viên tham gia bồi dưỡng thêm 1 buổi/ tháng ở trường ( do GV dạy tin học hướng dẫn) và bồi dưỡng dài hạn trong dịp hè ( tháng 8 hàng năm, có làm bài kiểm tra theo từng phần: Word, Excel, Power Point để ban giám hiệu đánh giá sự tiến bộ của GV qua hàng năm). Các tiết dự giờ có báo trước, các tiết thao giảng hàng tuần, các tiết dự thi giáo viên dạy giỏi cấp trường đều phải sử dụng công nghệ thông tin. Ngoài ra, mỗi tháng, mỗi GV phải có ít nhất 1 giáo án điện tử để cốp vào USB của nhà trường làm kho tư liệu dùng chung. Từ 16 giờ 15 phút hàng ngày, GV được phép khai thác internet ở tất cả các máy của nhà trường.
Đối với Thư viện thiết bị: Cập nhất tất cả các số liệu thư viện thiết bị, các tên sách vào máy để cập nhật hằng ngày. Nhân viên thư viện phải tự bồi dưỡng về trình dộ tin học, trình độ truy cập Internet để hướng dẫn học sinh truy cập Internet vào chiều thứ tư và thứ 7 hàng tuần.
Đối với học sinh: 100% học sinh từ lớp 3 trở lên được học tin học. Phấn đấu trong năm học 2008-2009 có ít nhất 50% học sinh lớp 3,4,5 được tiệm cận các hoạt động Internet. Vào thứ 4 và thứ 7 hàng tuần tổ chức cho học sinh tiếp cận khai thác Internet( Tại phòng thư viện thiết vị, theo lịch hàng tuần của trường).
Cán bộ thư viện phải chịu trách nhiệm hướng dẫn học sinh khai thác đúng địa chỉ.
	Biện pháp 4: Tăng cường công tác chỉ đạo vấn đề bồi dưỡng, tự bồi dưỡng công nghệ thông tin của đội ngũ , đặc biệt là vấn đề soạn và trình chiếu giáo án điện tử.
	Hiện tại, nhiều trường đã áp dụng GAĐT trong các giờ dạy. Nhưng vấn đề là chúng ta có nghĩ đến việc áp dụng như thế đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa? Nếu chưa thì áp dụng thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT.
 Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang các slide trình diễn, giáo viên thường mang tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là chúng ta nghĩ chúng ta sẽ trình bày những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế học sinh sẽ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài. 
	 Chúng ta cần nhớ một điều: Slide là nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng. Tuỳ theo từng môn học, chúng ta có thể bổ xung các công thức, hình ảnh minh hoạ một cách hợp lý. Đây là bước mà giáo viên cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu slide cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu ý đến số lượng chữ, mầu sắc, kích thước trên các slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muốn trình bày dưới dạng keyword một cách rõ ràng và dễ hiểu. Nhìn vào slide GV có nhiệm vụ giải thích kỹ càng và mở rộng nó ra chứ không phải là đọc các dòng chữ trên slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV có thể thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Không sao, GV có thể in ra một bản handout để vừa giảng vừa nhìn vào nó để xác định vấn đề sẽ nói tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng có nghĩa GA truyền thống được lãng quên. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong GA truyền thống chúng ta trình bày những gì. Phải chăng là tất cả nội dung bài giảng ? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số slide, các slide chỉ chứa hình ảnh thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Phải chăng GV thích nói nội dung nào trước đều được? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu một GV mới có thể nhớ hết nội dung mình đã chuẩn bị trước buổi dạy? 
Chính vì vậy, cần chỉ đạo GV xây dựng đề cương giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay lập tức. Đề cương này sẽ ghi rõ số tiết dạy của môn học, tên bài giảng tương ứng với các tiết học nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong mỗi tiết học là gì? Vấn đề nào trình bày trước, vấn đề nào trình bày sau? Vấn đề nào cần được trọng tâm và nhấn mạnh? Sở dĩ chúng ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy là vì nếu tiết giảng dạy đó GV chưa nói hết nội dung các slide hay đã trình bày hết nhưng thời gian còn thừa đồng nghĩa với việc “cháy giáo án” và học trò rất dễ nhận ra. Do đó, xây dựng đề cương một cách hợp lý giáo viên ắt hẳn sẽ không còn băn khoăn gì về cách dạy mới mẻ này.
Ngoài ra, nhà trường rất chú ý đến việc lựa chọn GV hợp đồng dạy tin học ( phải thực sự có năng lực, phải nhiệt tình, phải là nồng cốt trong việc bồi dưỡng năng lực tin học cho đội ngũ).
 	Nhà trường ưu tiên bồi dưỡng về Công nghệ thông tin: Soạn giáo án điện tử; chụp ảnh kết nối vào máy tính và đưa vào các slide phù hợp, lập hộp thư điện tử ( chiều thứ tư hàng tuần). Thường xuyên tổ chức cho giáo viên khai thác hộp thư điện tử (webmail) của Phòng GD-ĐT và Internet vào 16h15 hàng ngày; cho học sinh lớp 2-5 đọc báo trên Internet vào chiều thứ tư, thứ bảy.
Biện pháp 5: Không ngừng tăng trưởng về cơ sở vật chất phục vụ cho việc đẩy mạng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
- Tăng trưởng, an toàn trang thiết bị Công nghệ thông tin
+ Từ tháng 8 đã bổ sung máy tính theo kế hoạch được duyệt, nâng số máy tính lên 18 máy ( Phòng máy có 12 máy)
+ Khuyến khích cán bộ, giáo viên mua máy tính bằng cách tổ chức “Hội tiết kiệm” mỗi nhóm có 11-12 người. Mức đóng góp hàng tháng 500.000đ/ người, ưu tiên cho những đồng chí khó khăn trước. Bằng cách làm đó đến nay 100% cán bộ, giáo viên có máy tính riêng, nhiều đồng chí đã kết nối mạng Internet.
+ Cải tạo hệ thống điện đảm bảo an toàn lưới điện cho mọi hoạt động cùng lúc.
+ Nâng cao trách nhiệm trong công tác bảo vệ, tăng thêm khoá ở các phòng chức năng, tăng thêm đèn bảo vệ; điều chỉnh nội qui cho phù hợp.
+ Thực hiện nối mạng LAN ( Hiệu trưởng, P.Hiệu trưởng, văn phòng và Thư viện : 05 máy)
Phần kết luận
1. Kết quả đạt được :
Sau hai năm áp dụng các biện pháp nêu trên vào dạy học trong nhà trường, tôi tự nhận thấy hiệu quả đạt được rất cao:
*Về chất lượng giảng dạy: Chất lượng giờ dạy được sử dụng Công nghệ thông tin luôn đạt cao hơn những tiết dạy học khác ( Công nghệ thông tin làm tăng khả năng tư duy của học sinh, tạo sự hứng khởi mới cho các em, đưa đến tiết học nhẹ nhàng, hiệu quả).
 100% học sinh từ lớp 3 trở lên được học môn tự chọn Tin học đạt chất lượng cao; 50% học sinh toàn trường được tiếp cận Internet.
Công nghệ thông tin đã lôi kéo học sinh thích đến trường, thích khám phá các điều mới mẽ mà thầy cô đem đến trong từng tiết học. 
Chất lượng giảng dạy của tất cả các khối lớp ngày một được củng cố vững chắc, thể hiện rõ nét nhất là qua kết quả KTĐK cuối năm học:
Chất lượng KTĐK cuối kỳ II, năm học 2008 - 2009:
Khối
HS tham gia
Tiếng Việt
Toán
TB trở lên
Khá giỏi
TB trở lên
Khá giỏi
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
60
60
100
60
100
60
100
57
95,0
2
61
61
100
60
98,4
61
100
58
95,1
3
70
70
100
70
100
70
100
68
97,1
4
55
54
100
53
98,1
54
100
52
96,3
5
61
61
100
61
100
61
100
60
98,3
TT
307
306
100
304
99,3
306
100
295
96,4
Kết quả chất lượng cuối năm 2008- 2009:
TT
Môn
Khối
TSHS
Tham
gia
Giỏi(9 - 10)
Khá(7 - 8)
TB(5-6)
Yếu( 1-4)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
Toán
1
60
60
36
60,0
21
35,0
2
3,3
1
1,7
TViệt
29
48,3
30
50,0
1
1,7
2
Toán
2
61
61
37
60,7
22
36,1
2
3,2
TViệt
20
32,8
38
62,3
3
4,9
3
Toán
3
70
70
32
45,7
36
51,4
2
2,9
TViệt
25
35,7
42
60,0
3
4,3
4
Toán
4
55
55
15
27,8
27
50,0
12
21,8
01
1,8
TViệt
15
27,8
33
60,0
7
13,0
5
Toán
5
61
61
17
27,9
27
44,3
17
27,8
TViệt
16
26,2
44
72,1
1
1,7
6
Toán
Toàn
Trường
307
307
137
44,6
133
43,3
35
11,4
02
0,7
TViệt
105
34,2
187
60,9
15
4,9
Kết quả chuyển giao chất lượng cuối năm lớp 5 : 100% học sinh đủ điều kiện lên lớp 6, trong đó 98,4 % đạt loại giỏi, khá.
* Xếp loại chất lượng học lực cuối năm:
TT
Khối
lớp
TSHS
Học lực
Ghi chú
HS giỏi
SH TTiến
Còn lại
SL
%
SL
%
SL
%
1
1
60
28
46,7
10
15,0
23
38,3
2
2
61
19
31,1
19
31,1
23
37,8
3
3
70
22
31,4
13
18,6
35
50,0
4
4
55
10
18,2
27
49,1
18
32,7
5
5
61
08
13,1
30
49,2
23
37,7
T. trường
307
87
28,3
99
31,9
122
39,7
So với chất lượng cuối năm 2007- 2008: 
 Học sinh giỏi tăng 07 em
 Học sinh tiên tiến tăng 01 em. .	 
* Về đội ngũ GV:
 100% giáo viên có máy tính riêng, biết sử dụng thành thạo máy tính: lập các loại hồ sơ và lưu giữ, soạn giáo án trên máy và soạn giáo án điện tử, sử dụng giáo án điện tử vào dạy học; biết chụp ảnh kết nối vào bài soạn làm phong phú thêm giờ dạy. Riêng những tiết thao giảng, kiểm tra toàn diện, thi giáo viên dạy giỏi cấp trường thực hiện giáo án điện tử 100%).
Số tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin trong năm học: 210 tiết
 100% giáo viên đều biết khai thác, sử dụng Internet tìm tư liệu nâng cao hiệu quả công tác. Số tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin trong năm học tăng lên đáng kể( 210 tiết).
2. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong những năm qua, tôi đã đúc rút lại ngắn gọn thành các biện pháp sau:
	+ Quán triệt và nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong dạy học, đặc biệt là ở bậc tiểu học.
	+ Xây dựng kế hoạch chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin cụ thể ngay từ đầu năm học. 
	+ Làm tốt công tác tham mưu với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương. Bởi khi các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương thông suốt, thấu hiểu tầm quan trọng của CNTT sẽ hỗ trợ tích cực cho nhà trường trong vấn đề trưởng cơ sở vật chất, trang thiết bị.
	+ Chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng trong đội ngũ. 
	+ Hợp đồng GV dạy tin học phải có sự lựa chọn kĩ càng.(GV dạy Tin học phải có kiến thức, năng lực, lòng nhiệt tình.....)
	+ Tăng cường cơ sở vật chất , thiết bị dạy học phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin. 
+ Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, huy động cộng đồng cùng tham gia tăng trưởng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.
	+ Xây dựng quy chế thi đua khen thưởng, trách phạt rõ ràng trong vấn đề sử dụng công nghệ thông tin..
Kết luận:
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào trường học là việc làm cần thiết và đúng đắn. Công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp dạy và học, làm cho học sinh hứng thú học tập hơn, kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn.
	Tuy nhiên, sử dụng công nghệ thông tin cũng lắm công phu. Có lẽ vì thế mà một số trường đã thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức và dừng lại ở các tiết học thao giảng. Phải chăng có nhiều rào cản trong việc áp dụng phương pháp mới này? Đó là do cơ sơ vật chất hay do sự ngại ngùng của một số giáo viên khi làm quen với các kỹ thuật tin học để phục vụ cho môi trường giảng dạy mới? Trở ngại thứ nhất chúng tôi nghĩ khó giải quyết nhưng khi giải quyết được thì vấn đề thứ hai hoàn toàn có thể khắc phục được. Với đội ngũ GV hiện có trong nhà trường, chỉ cần tăng cường tổ chức bồi dưỡng cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint, cách trình chiếu cho toàn thể các giáo viên ( ít nhất 1 buổi/ tháng) thì nhất định tất cả GV có thể tự mình thiết kế một GAĐT riêng cho mình. Chúng tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm việc tăng cường bồi dưỡng, tất cả GV hoàn toàn có thể thiết kê được bài giảng thiết kế điện tử để thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
Tuy nhiên, cần phải có quan niệm đúng đắn rằng: Công nghệ thông tin chỉ là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp, đặc biệt đối với Bậc tiểu học.
Trên đây là những suy nghĩ, những việc bản thân đã làm, đang làm và tiếp tục thực hiện trong quá trình công tác giảng dạy tại trường TH số 1 Kiến Giang . Những kết quả gặt hái được chỉ là bước đầu. Rất mong sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn thiện hơn, góp phần nhỏ vào phong trào chung trong sự nghiệp giáo dục hiện nay. Xin chân thành cảm ơn .
 Kiến Giang, ngày 20 tháng 5 năm 2009
 Người viết:
Đánh giá của HĐKH nhà trường: Võ Thị Tường Vy

File đính kèm:

  • docKinh_nghiem_trong_chi_dao_UDCNTT_Vo_Thi_Tuong_Vy_PHT_TH_so_1_Kien_Giang.doc
Sáng Kiến Liên Quan