Sáng kiến kinh nghiệm Tích cực hóa việc học tập của học sinh qua các tiết học

 Chúng ta đang sống trong thế kỷ của trí tuệ sáng tạo. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đó là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Sự nghiệp giáo dục phải góp phần quyết định vào việc bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tiềm năng trí tuệ, tư duy sáng tạo, năng lực tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, năng lực giải quyết vấn đề thích ứng được với thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của kinh tế tri thức. Mục tiêu đổi mới này đòi hỏi ở người thầy phải phân tích và nhận thức được tầm quan trọng trong công tác giảng dạy, ngay chính trong bản thân người thầy cũng phải đổi mới về phương pháp giảng dạy cho phù hợp với thực tiễn đặt ra.

 Dạy học trước kia mang tính chất “độc thoại thông báo, giảng giải áp đặt” của sự dạy và tính chất “thụ động chấp nhận, ghi nhớ, thừa hành, bắt buộc” sự học của trò. Kiểu dạy học như thế không thể khích lệ, phát huy được hoạt động tự chủ, tìm tòi, sáng tạo giải quyết vấn đề của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Cách thức dạy học đó ngày nay không còn phù hợp với xu thế thời đại. Kiểu dạy học đó không thể tồn tại và chấp nhận được.

 Trong chương trình Vật lý ở bậc học THPT, định luật vật lý là một trong những nội dung cơ bản nhất, song song tồn tại với định nghĩa các đại lượng vật lý mà người giáo viên cần truyền đạt cho học sinh. Vì vậy, việc giảng dạy các định luật vật lý, định nghĩa các đại lượng vật lý theo phương pháp đổi mới là rất cần thiết.

 

doc23 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 2007 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tích cực hóa việc học tập của học sinh qua các tiết học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc đó, giáo viên dẫn dắt học sinh suy nghĩ tìm mối quan hệ qua lại, sự phụ thuộc lẫn nhau trong nội dung bài học để phân tích định tính hay định lượng rút ra định nghĩa mới hoặc nội dung của một định luật nào đó.
2. Xây dựng phương án dạy học kiến thức cụ thể
2.1. Lập sơ đồ mô phỏng tiến trình khoa học giải quyết vấn đề xây dựng kiến thức vật lý cần dạy
 Bước tiếp theo sau khi xác định được mục tiêu bài dạy, ta cần thiết kế tiến trình hoạt động dạy học cho một kiến thức vật lý cụ thể. Chúng ta phải lập một sơ đồ mô phỏng tiến trình khoa học giải quyết vấn đề, xây dựng hoặc kiểm nghiệm, vận dụng kiến thức Vật lý cụ thể. Hiểu theo một cách đơn giản là chúng ta cần xây dựng một con đường của sự lôgic để học sinh tiếp cận kiến thức mới nhanh nhất, dễ hiểu nhất và có sự lôgic với nhau trong mọi quá trình của bài dạy. 
 Để làm được việc này người giáo viên phải phân tích được tiến trình khoa học xây dựng kiến thức mới đó là:
 - Kiến thức cần xây đựng là điều gì ?
 - Kiến thức đó được diễn đạt thế nào ?
 - Nó là câu trả lời rút ra được từ việc giải bài toán cụ thể nào ?
 - Kiến thức đó xuất phát từ câu hỏi nào ?
 - Tính hợp thức khoa học của câu trả lời có không ?
Dạng khái quát của sơ đồ mô phỏng tiến trình khoa học giải quyết vấn đề khi xây dựng, kiểm nghiệm/ ứng dụng một tri thức mới như sau
Bài toán
Vấn đề
(đòi hỏi xây dựng kiến thức)
Điều kiện cần sử dụng để tìm câu trả lời cho vấn đề đặt ra
 Giải quyết bài toán
Kết luận/ nhận định
Vấn đề
(đòi hỏi kiểm nghiệm/ứng dụng thực tiễn kiến thức)
Bài toán
Điều kiện cần sử dụng để tìm câu trả lời cho vấn đề đặt ra một mặt nhờ suy luận, mặt khác nhờ thí nghiệm quan sát
Giải bài toán nhờ thí nghiệm, quan sát
Giải bài toán bằng suy luận lý thuyết
Kết luận
(nhờ thí nghiệm quan sát)
Kết luận
(nhờ suy luận lý thuyết )
2.2. Phương án dạy học kiến thức cụ thể
 Phương án dạy học một kiến thức cụ thể có thể mô phỏng theo các bước sau
1.sơ đồ cấu trúc nội dung và tiến trình xây dựng kiến thức
1.1: Câu hỏi cơ bản và kết luận tương ứng cần xây dựng
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 
 1.2: Đề kiểm tra kết quả học
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2.mục tiêu dạy học và đề kiểm tra kết quả học
 2.1: Mục tiêu dạy học
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 2.2: Đề kiểm tra kết quả học
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
3.Phương tiện dạy học
 3.1: Giáo viên: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 3.2: Học sinh: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
4. nội dung trình bày bảng
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 
5. tiến trình dạy học kiến thức cụ thể
 Hoạt động I
 I.1: Định hướng mục tiêu hoạt động
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 I.2: Định hướng giải quyết nhiệm vụ
 - Xác định giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 - Thực hiện giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 I.3: Tổng kết củng cố kết quả
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hoạt động II
 II.1: Định hướng mục tiêu hoạt động
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 II.2: Định hướng giải quyết nhiệm vụ
 - Xác định giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 - Thực hiện giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 II.3: Tổng kết củng cố kết quả
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hoạt động III. IV. . . . . .
Sau khi lập sơ đồ tiến trình giải quyết vấn đề xây dựng kiến thức cần dạy trên cơ sở đó giáo viên có thể soạn bài theo ý đồ mà mình xây dựng.
3. Soạn bài
 Soạn bài là công việc bắt buộc của một người thầy, mọi hoạt động trên lớp có tốt hay không được thể hiện ở nội dung bài soạn.
 - Mục tiêu dạy học phải nêu được nhiệm vụ của học sinh cần tiếp thu kiến thức trọng tâm của bài, nhiệm vụ về kỹ năng của học sinh, mục tiêu giáo dục đạo đức của học sinh qua bài học, mục tiêu phát triển tri thức khoa học là gì.
 - Phương tiện dạy học giáo viên phải định hình được sự chuẩn bị của mình về tri thức cần dạy, dụng cụ thí nghiệm cần chuẩn bị , hay phương tiện dạy học là gì ? Đối với học sinh, giáo viên cần học sinh chuẩn bị những gì.
 - Tiến trình hoạt động dạy học cụ thể ở đây là nội dung cơ bản của bài soạn là kịch bản mà giáo viên trình diễn trước lớp học. Nội dung này phải nêu được các vấn đề liên quan bài dạy các vấn đề đó phải có sự lôgic của sơ đồ mô phỏng tiến trình khoa học giải quyết vấn đề khi xây dựng, kiểm nghiệm ứng dụng một tri thức mới mà giáo viên đã lập ở mục 2. Đối với giáo viên mới nội dung trình bày bảng rất cần thiết.
 Trong sáng kiến này mục đích không phải trình bày thiết kế một bài soạn vì vậy tôi không đi sâu vào nội dung của một bài soạn nhưng theo tôi bài soạn ta có thể làm theo mẫu sau.
Mẫu tổng quát bài soạn
I:Mục tiêu.
 + Kiến thức ( Nội dung trọng tâm bài học sinh cần nắm)
 + Kỹ năng (Rèn luyện cho học sinh những ký năng gì?)
 + Giáo dục( Giáo dục thế giới quan, khoa học như thế nào, giáo dục đạo đức học sinh ở mục nào).
II Phương tiện dạy học.
 + Giáo viên ( Giáo viên cần chuẩn bị những gì ?)
 + Học sinh ( Yêu cầu học sinh chuẩn bị gì về dụng cụ học, về tri thức )
III Tổ chức các hoạt động dạy – học
Hoạt động 1 ( nội dung, thời gian )
Trợ giúp của giáo viên Hoạt động của học sinh 
Hoạt động 2 ( nội dung, thời gian )
Trợ giúp của giáo viên Hoạt động của học sinh 
Hoạt động 3.4 . .
II. Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp.
 Tổ chức hoạt động trên lớp là khâu quan trọng quyết định chất lượng của một giờ học. Để tích cực hóa hoạt động học của học sinh trên lớp học giáo viên phải thực hiện đúng các bước trên lớp, thể hiện rõ vai trò của người thầy . Theo ý kiến của tôi để tích cực hóa hoạt động của học sinh trên lớp thì giáo viên cần thực hiện tốt cáccông việc sau:
1. Lời nói của giáo viên
Vai trò của lời nói trên lớp.
 Để nhận biết được sự vật hiện tượng phải thông qua hai con đường đó là các giác quan và ngôn ngữ lời nói. Lời nói là nguồn chính cung cấp tri thức cho học sinh, quyết định tới sự nhận thức tri thức của học sinh cũng thông qua lời nói.
 Lời nói là phương tiện, công cụ mà nhờ nó con người giao tiếp với nhau, trao đổi ý kiến, hiểu biết nhau. Thầy hiểu trò và trò hiểu thầy thông qua lời nói.
 Trong phương pháp trình bày tài liệu bằng lời, giáo viên chỉ sử dụng lời nói nhưng hầu hết các giác quan khác, phương tiện dạy học khác đã có sự giúp đỡ đắc lực của lời nói.
Yêu cầu của lời nói
 Đối với một một giáo viên vật lý giảng dạy bộ môn tự nhiên lời nói phải: Chính xác, rõ ràng, rành mạch, đầy đủ.
 Khi nói phải rõ ràng, đủ nghe, nhịp điệu vừa phải. Học sinh phải đủ nghe rõ lời nói của giáo viên, học sinh chỉ có thể nghe nhanh ở kiến thức cũ hoặc học sinh đã biết khi đề cập vấn đề mới giáo viên cần bình tĩnh nói chậm đủ cho học sinh hiểu lời nói của thầy.
 Giọng nói phải trầm tĩnh êm tai không gay gắt và đơn điệu phải biết nhấn mạnh chỗ quan trọng, ngừng lại trước hoặc sau câu cần chú ý. 
2. Kiểm tra học sinh
 Trước tiên khi bước vào lớp giáo viên cần kiểm tra, bao quát chung toàn bộ lớp học từ việc nhỏ nhất đó là bảng viết của giáo viên, bàn ghế học tập của học sinh, vệ sinh lớp học, thái độ học tập của học sinh. Công việc này giúp học sinh có thái độ nghiêm túc trong học tập. Khi có hiện tượng bất thường xẩy ra giáo viên cần uốn nắn kịp thời rồi mới bắt đầu vào giờ học.
 Việc kiểm tra bài cũ của học sinh cũng là một công việc cần thiết, qua đó giáo viên nhận biết được sự chuẩn bị của học sinh ở nhà và sự tiếp thu kiến thức cũ. Công việc kiểm tra bài cũ không cần nhất thiết phải thực hiện vào đầu tiết học tùy theo nội dung bài học giáo viên có thể kiểm tra đầu giờ và cũng có thể xen kẽ trong giờ học. Để tích cực việc học tập của học sinh ở lớp cũng như ở nhà khi kiểm tra bài cũ tôi thường áp dụng các câu hỏi khác nhau cho các đối tượng học sinh. Đối với học sinh yếu, trung bình yếu chỉ cần học sinh nắm vững, thuộc nội dung trong sách giáo khoa là đủ, sau khi học sinh nâng dần kiến thức ta kiểm tra ở hình thức cao hơn. Đối với học sinh khá tôi không chỉ kiểm tra nội dung trong sách giáo khoa mà bao giờ cũng đặt lần lượt các câu hỏi lôgic từ dễ đến khó, liên tục đòi hỏi ở học sinh không chỉ thuộc nội dung bài mà cơ bản học sinh hiểu bài tới đâu. Khi học sinh không thuộc bài tôi thường yêu cầu học sinh về nhà chép lại nội dung bài kiểm tra từ 10 đến 20 lần tùy theo đối tượng hoặc có thể yêu cầu học sinh học ngay trên lớp cho thuộc khi học sinh kiểm tra lại thuộc tôi thường đông viên bằng các câu hỏi “ học bài cũ khó hay dễ ? em học bằng cách nào thì chóng thuộc bài cũ ?” 
 Kiểm tra dụng cụ học tập của học sinh trên lớp. Điều kiện đảm bảo cho học sinh học, hiểu nội dung bài học trên lớp thì bắt buộc học sinh phải chuẩn bị đủ dụng cụ học tập đối với tôi cần ở học sinh trong các giờ học phải có sách giáo khoa, sách bài tập, vở ghi chép không phải giờ học nào cũng kiểm tra mà giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị từ đầu năm học và đột xuất trong giờ học giáo viên kiểm tra dụng cụ học tập của học sinh. Những học sinh không mang sách giáo khoa hoặc sách bài tập trong các giờ bài tập, hôm sau tôi kiểm tra ngay nội dung bài cũ học sinh đó. 
 Kiểm tra ghi chép của học sinh trong các giờ học. Khi kiểm tra miệng hoặc giờ bài tập giáo viên kiểm tra ghi chép của học sinh trong tiết trước. Trong giờ học tôi không quan tâm tới việc học sinh ghi chép như thế nào nhưng không hẳn là học sinh chỉ ngồi nghe và tham gia vào tiết học là đủ. Mà điều tôi quan tâm tới học sinh ghi chép những gì, những nội dung cơ bản của bài học học sinh phải tự ghi lại theo cách hiểu của mình hoặc về nhà học sinh có thể tự ghi lại bài học. Khi kiểm tra học sinh phải có trong vở lý thuyết của mình. Vì cùng một buổi, học sinh tiếp thu các kiến thức của nhiều bộ môn , nhiều kiến thức mới và có kiến thức mà sách giáo khoa không có nhưng rất quan trọng đối với sự phát triển tri thức của học sinh và nội dung trọng tâm bài học, trong khi đó học sinh THPT đang trong độ tuổi tâm lý phát triển nhân cách nên không thể nhớ lâu, vì vậy vở lý thuyết là dụng cụ học tập thứ ba của học sinh sau SGK và sách bài tập, rất tốt cho học sinh học trên lớp cũng như ở nhà. 
 Kiểm tra định hướng hành động học của học sinh. Khi giáo viên giao nhiệm vụ, đưa ra vấn đề tri thức thì giáo viên cần kiểm tra. Thể hiện ở chỗ giáo viên phải bao quát được toàn bộ lớp học. Kiểm soát, theo dõi toàn bộ hoạt động học của học sinh. Khi phát hiện học sinh không tập chung bài học tôi thường gọi ngay học sinh đó trả lời kiến thức phần trước đó học sinh đã học, ngay trong bài học mới. Từ việc rất nhỏ của học sinh đến việc học sinh nói truyện không phải vấn đề bài học giáo viên cần nhắc nhở ngay. 
Đề suất vấn đề nhận thức 
 Đề suất vấn đề nhận thức là đặt vấn đề, nêu mục đích bài học, xét hiện tượng gì, nghiên cứu các vấn đề giữa các hiện tượng phụ thuộc vào các đại lượng nào. Chú ý ở đây giáo viên mới chỉ là đề suất chứ chưa nói tới kết quả của việc giải quyết vấn đề.
 Đề suất vấn đề nhận thức là một yêu cầu sư phạm vì nó có tính chất kích thích tính tích cực, phát triển tư duy của học sinh, sự tò mò của học sinh cần khám phá. Nó có tác dụng thực sự khi gặp tình huống có vấn đề.
 Theo tôi để tạo tình huống có vấn đề giáo viên có thể tạo ra như sau:
 - Liên hệ với đời sống hàng ngày gần gũi với học sinh. đây là cách phổ biến nhất để tạo ra tình huống giáo viên có thể kể ra ý nghĩa, ứng dụng của khoa học kỹ thuật và xác định chúng. 
 - Giáo viên có thể sử dụng những thí nghiệm gợi mở kỳ lạ trái với dự đoán của học sinh.
 Ví dụ: Trong bài sự rơi tự do trong SGK vật lý lớp 10 giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh ( 1 Viên sỏi và 1 mẩu giấy vật nào rơi nhanh hơn khi ta thả từ cùng một độ cao so mặt đất? ). Cho học sinh nhận xét nhiều học sinh sẽ cho rằng viên sỏi rơi nhanh hơn tiếp đó giáo viên làm thí nghiệm cho học sinh quan sát học sinh thấy ở thí nghiệm chúng rơi như nhau từ đó giáo viên đặt câu hỏi yếu tố nào ảnh hưởng tới tốc độ rơi của các vật ?. Bằng thí nghiệm đòi hỏi ở học sinh phải suy nghĩ lại bằng sự quan sát bằng kiến thức đã học để học sinh khám phá nhận định lại sự rơi của các vật trong không khí.
 - Giáo viên có thể sử dụng các bài tập gợi mở kích thích tư duy của học sinh.
 Ví dụ: Khi giảng dạy bài ngẫu lực giáo viên cho học sinh giải bài tập đơn giản về tổng hợp hai lực song song ngược chiều tác dụng lên vật rán yêu cầu học sinh tìm lực tổng hợp xác định trạng thái của vật khi có lực tác dụng. Rõ ràng khi học sinh áp dụng quy tắc hợp lực của 2 lực song song ngược chiều thấy lực tổng hợp F = 0, tổng mô men hai lực cũng bằng không vật ở trạng thái đứng yên trên thực tế vật lại chuyển động. Hiện tượng này ta giải thích thế nào ?
 4. Thường xuyên cho học sinh vận dụng kiến thức cũ đã học để xây dựng kiến thức mới
 Biện pháp này tích cực hóa tư duy của học sinh và đảm bảo kiến thức học sinh chiếm lĩnh sâu sắc, vững chắc vì “ tiếp thu là hòa lẫn sản phẩm kinh nghiệm của người khác với kiến thức của chính mình” .
 Học sinh được vận dụng kiến thức cũ chứng minh kiến thức mới từ đó học sinh một lần nữa ôn tập lại kiến thức cũ mà học sinh đã hiểu và từ đó tư duy của học sinh cũng được phát phiển theo một mức độ mới.
 Khi dạy các tri thức vật lý điều tối kỵ ở giáo viên là sử dụng những kiến thức mà học sinh chưa biết để chứng minh những kiến thức mới.
 Sử dụng nhiều thí nghiệm biểu diễn vật lý theo phương pháp biểu diễn kích thích học sinh tò mò, hiếu kỳ, lôi cuốn học sinh vào bài mới nhanh hơn học sinh học tập hăng hái hơn.
5. Tổ chức các tình huống học tập có vấn đề
 Biện pháp này giúp học sinh luôn luôn suy nghĩ,tích cực, tự chủ, phải tìm hiểu nhưng không nhàn chán.
 Tình huống học tập có vấn đề thể hiện ra ở chỗ Giáo viên phải soạn thảo được những nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề tương ứng với tri thức cần dạy để giao cho học sinh. Sao cho nhiệm vụ đó học sinh hăng hái đảm nhận thực hiện theo suy nghĩ, giải pháp của mình.
 Khi giáo viên đưa ra các tình huống học tập có vấn đề phải chú ý tới sự chuyển tiếp các kiểu tình huống có vấn đề vừa sức với sự nhận thức của học sinh không quá khó. Giữa các tình huống đó phải có sự lôgic giúp học sinh không nhàm chán mà luôn luôn suy nghĩ.
6. Định hướng khái quát hành động học, thể chế hóa tri thức cần học
 Để định hướng được hành động học của học sinh một cách tích cực, tự chủ giáo viên không đơn thuần bày sẵn cho người học những kết quả cần có, có sẵn trong sách giáo khoa. Để người học chỉ việc chấp nhận, ghi nhớ, làm theo mà giáo viên phải giúp đỡ để người học tự chủ suy nghĩ, hành động hướng tới cái cần có mà chưa biết cụ thể, để nắm bắt làm chủ cái cần có đó, bổ sung vào vốn hiểu biết của mình. Giáo viên không nên đặt câu hỏi mà kiến thức đó học sinh chỉ đọc sách là có mà cần đặt câu hỏi về kiến thức trong sách nói gì ? Vận dụng kiến thức cũ, hiểu biết của mình để giải đáp kiến thức đó như thế nào ? giáo viên cần đưa ra các câu hỏi gọi mở dẫn dắt học sinh hiểu dần ra vấn đề của tri thức. ở đúng lúc cần thiết giáo viên mới cung cấp cho học sinh những thông tin bổ sung, thông báo, giảng giải để chuẩn xác hóa tri thức cần nắm vững. Từ đó định hướng cho học sinh tự hoàn thiện tiếp tri thức của mình lúc này giáo viên dành một khoảng thời gian để học sinh tự ghi lại kiến thức đó theo cách hiểu của học sinh vào vở. Chú ý kiến thức đó Giáo viên không đọc cho học sinh ghi mà tự học sinh viết lại, Tri thức đó phải đảm bảo học sinh đã hiểu và họ chỉ tái tạo lại bằng ngôn ngữ của chính người học.
7. Củng cố bài học, định hướng phương pháp học tập ở nhà của học sinh
 Củng cố bài học là công việc gần cuối cùng của giáo viên trên quan điểm trong giờ học giáo viên nhận biết học sinh học, tiếp thu như thế nào, bên cạnh đó giúp học sinh ôn tập củng cố lại tri thức vừa học giáo viên có thể đưa ra các bài tập trắc nghiệm yêu cầu học sinh chọn đáp án đúng và dựa vào kiến thức trọng tâm bài học học sinh tự giải thích đáp án mình vừa chọn. Giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh nhắc lại bằng lời nội dung bài học. Hoặc giáo viên ra bài tập yêu cầu học sinh đưa ra lời giải nhanh trên cơ sở đó giáo viên tổng kết lại nội dung cơ bản bài học, gạch chân những nội dung cơ bản bài học, dùng phấn khác màu đóng khung các công thức vận dụng.
 Định hướng phương pháp học tập ở nhà của học sinh là giáo viên có thể giao cho học sinh các bài tập, các bài tập đó phải đảm bảo có tính chọn lọc nội dung các bài tập giao từ dễ đến khó, bài tập vừa mang tính áp dụng củng cố tri thức bài học, vừa mang tính sáng tạo đòi hỏi học sinh khá giỏi phải suy nghĩ. Sau các tiết bài tập, lý thuyết có công thức vận dụng làm bài tập tôi thường nhắc nhở học sinh về nhà ghi lại toàn bộ công thức, phương pháp giải bài tập vào một quyển riêng, phương pháp này giúp học sinh vừa ôn tập tri thức vùa có cẩm nang bổ ích cho học sinh học về sau. 
Phần ba: kết quả điều tra khảo sát thực tiễn
I. Mục đích.
+ Khảo sát vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm
+ Xem xét việc học sinh nắm vững nội dung tri thức mới 
+ Tìm hiểu nguyên nhân của việc học sinh tiếp thu kiến thức 
+ Trên cơ sở khảo sát cần bổ sung kiến thức cho học sinh.
II. đối tượng khảo sát.
 Tác giả tiến hành khảo sát trên các lớp 10 của ban cơ bản và ban nâng cao,gồm các lớp 10B1, 10B3, 10B5, 10C2, 10A1, 10A2, 11A4, 11A6, 11B1,11B3.
 Đặc điểm của đối tượng khảo sát:
 Nhìn chung học sinh trên các lớp phần lớn là các học sinh trung bình,số lượng học sinh khá chiếm tỉ lệ thấp.riêng lớp 10A1, 10A2 11A4 số học sinh khá chiếm tỉ lệ cao hơn so với các lớp còn lại.
III. kết quả
 + Trong quá trình giảng dạy tác giả đều đưa ra các câu hỏi gợi mở, phân tích tổng hợp đi thẳng vào vấn đề trọng tâm của bài và cuối tiết đều có các câu hỏi trắc nghiệm và bài tập định lượng trắc nghiệm thì thấy kết quả là: 90% học sinh hiểu ngay lý thuyết sau tiết dạy, 60% học sinh biết vận dụng làm bài tập đơn giản.
IV. Giải pháp
1 Phân tích hiện tượng
 Qua việc khảo sát thấy về lý thuyết học sinh hiểu ngay vấn đề nhưng vẫn còn tồn tại sau:
Kiến thức toán học của học sinh còn hạn chế, đặc biệt là kiến thức véc tơ, hàm số, biến đổi biểu thức toán học, tính số dẫn đến sự biến đổi các đại lượng vật lý còn yếu
Học sinh đưa ra được nội dung lý thuyết nhưng vận dụng vào thực tế còn lúng túng, chưa giải thích được một số các hiện tượng vật lý xảy ra.
Sau các bài học, học sinh nhận thức được ngay nội dung bài học nhưng đến hôm sau khi kiểm tra thì học sinh còn lúng tứng 
2 Giải pháp 
 - Trong các tiết học giáo viên cần củng cố kiến thức toán học nhất là kiến thức về véc tơ.
 - Trong các tiết bài tập giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách biến đổi các đơn vị vật lý.
 - Tăng cường kiểm tra việc học bài cũ của học sinh ở nhà.
Kết luận.
 Trong thời gian ngắn và điều kiện nội dung chương trình SGK nói chung, SGK môn vật lý nói riêng mới được cải cách, nhiều kiến thức còn mới với cả thầy và trò, tác giả làm đề tài này trong phạm vi nội dung hẹp, phạm vi khảo sát ít. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân tình của các đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện, phương pháp giảng dạy ngày càng đổi mới nâng cao hơn.
 Tác giả xin chân thành cám ơn!
 Phù Cừ, ngày 10 tháng 05 năm 2008
 Người viết
 Phan Văn Thành 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem.doc
Sáng Kiến Liên Quan